"Vì sao tôi nói bây giờ là thời điểm hợp lý? Vì chỉ còn một tháng nữa là tuyển Việt Nam sẽ tập trung để chuẩn bị cho AFF Cup 2022 rồi. Ông Park muốn mọi người chú ý và tập trung, đội tuyển phải đoàn kết thành một tập thể, chung một tinh thần và một mục tiêu. - Quân đội thời Lý gồm hai bộ phận: cấm quân và quân địa phương Tuyển chọn Tuyển chọn những thanh niên khỏe mạnh trong cả nước. Tuyển chọn trong số những thanh niên trai tráng ở các làng xã đến tuổi thành đinh (18 tuổi). Hoạt động Bảo vệ vua và kinh thành. - Canh phòng ở các lộ, phủ. Việt Nam duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc đối với công dân nam ở tuổi từ 18 đến 25, và đến 27 tuổi đối với các công dân đi học đại học, cao đẳng. Mỗi năm, quân đội Việt Nam tiến hành Trích yếu: Về kéo dài thời gian thực hiện và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 121/2016/NĐ-CP ngày 24/8/2016 đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 74/2020/NĐ-CP ngày 01/7/2020 của Chính phủ về thực hiện thí điểm quản lý lao động, tiền lương đối với Tập đoàn Công nghiệp - Viễn Công nghệ duy nhất có tính pháp lý, được pháp luật công nhận Thời gian sử dụng: 12 tháng; Thuế VAT: Đã gồm; Tổng Công ty Viễn thông Quân đội - Chi nhánh Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội cash. *Giống nhau -Đều thực hiện chính sách " ngụ binh ư nông" * Khác nhau - Nhà Trần +Còn thực hiện chủ trương''Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông'', để xây dựng tinh thần đoàn kết trong quân đội. +Quân đội chia thành hai loại cấm quân và quân ở các lộ. Ở làng,xã có hương binh. Ngoài ra còn có quân của các Vương Hầu - Nhà Lý quân đội được chia thành hai loại cấm quân và quân địa phương. TICK GIÙM NHA Đặc điểm tổ chức quân đội thời Lê Sơ - Thực hiện chính sách Ngụ binh ư nông. - Quân đội gồm 2 bộ phận Quân triều đình và Quân địa phương bộ binh,thủy binh,tượng và nghị binh. - Vũ khí đao,kiếm,cung tên,hỏa đồng,hỏa pháo. Kiên quyết bảo vệ vùng biên giới Tổ quốc. Đặc điểm tổ chức quân đội thời Trần - Quân đội tuyển chọn theo chính sách "ngụ binh ư nông", "quân lính cốt tinh nhuệ,không cốt đông". Học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ. - Bố trí tướng giỏi đóng quân ở các vùng hiểm yếu. Nhất là vùng biên giới phía Bắc. Giống nhau - Đều tuyển chọn theo chính sách "ngụ binh ư nông". - Đề cao giữ gìn và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Khác nhau - Thời Lê Sơ + Bộ máy tố chức quân đội gồm 2 bộ phận.Có sự sắp đặt + Vũ khí đa dạng,sắt bén. - Thời Trần + Bộ máy tổ chức quân đội không có sự sắp đặt. + Vũ khí thô sơ cuốc,cày,..... Banner được lưu thành công. Bài 10 Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước - Quân đội nhà Lý được chia làm 2 bộ phận cấm quân và quân địa phương. + Cấm quân là quân đội được tuyển chọn kĩ càng về lí lịch và sức khỏe, có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua và kinh thành. + Quân địa phương gọi là lộ quân, sương quân có nhiệm vụ canh phòng các lộ, phủ, áp dụng chính sách "ngụ binh ư nông". - Quân đội thời Lý bao gồm các binh chủng, thủy binh, kị binh và tượng binh, kỉ luật rất nghiêm minh, được rèn luyện chu đáo. - Vũ khí có giáo mác, dao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá … → Quân đội nhà Lý được tổ chức khá chu đáo, quy củ và hùng mạnh.Nguồn trang 38 sgk Lịch Sử 7 Bài viết cùng thư mục Vương triều Lý – Trần 1010 – 1400* Về chính trị – xã hội thời Lý – TrầnSau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã cho dời đô từ Hoa Lư Ninh Bình về Thăng Long và đặt tên nước là Đại Việt 1054. Kể từ đây, trong suốt 4 thế kỷ, nhà Lý 1010 – 1225 và nhà Trần 1225 – 1400 đã nối tiếp nhau tạo lập và phát triển hệ thống hành chính quốc gia, xây dựng các bộ luật thành văn ngày càng hoàn chỉnh, tăng cường tiềm lực anh ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc.– Hệ thống hành chính và bộ máy quan lại Quan chế thời Lý – Trần có quy củ và chặt chẽ hơn các triều đại trung ương Đứng đầu là vua, nắm mọi quyền hành và mang tính chất cha truyền con nối. Thông thường khi lên ngôi, vua lập ngay con trưởng làm Thái tử. Riêng thời Trần, nhà Trần đặt chế độ Thái thượng hoàng tức là hai vua cùng cai trị thiên hạ. Điều này có tác dụng lớn trong việc ngăn chặn tình trạng các đại thần chuyên quyền, cướp ngôi khi vua còn nhỏ việc cho vua là bộ máy quan lại gồm nhiều bậc các đại thần Tể tướng giữ chính sự, Tam thái, Tam thiếu, Tư đồ, Bộc xạ…. Các chức này thường được phong thêm “Bình chương quân quốc trọng sự” với ý nghĩa là được bàn việc nước cùng đại thần là hệ thống các cơ quan chỉ đạo các hoạt động của nhà nước gọi chung là Hành khiển. Thời Lý, Hành khiển là tên gọi một số quan chức thừa hành cao cấp. Thời Trần, Hành khiển được tổ chức thành ty, có các chức quan tả hữu Thị lang, Thượng thư. Theo Ngô Sĩ Liên “Chế độ nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ, ở hương của mình. Khi nào có việc vào làm Tể tướng mới tóm giữ việc nước, song chỉ nắm đại cương thôi, còn quyền thuộc về Hành khiển”*. Ngoài ra còn có một số cơ quan giúp việc khác như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Quốc sử viện… Về quân sự có các chức Phiêu kỵ tướng quân, Thân vệ tướng quân, Cấm vệ Thượng tướng quân, Đại tướng… * Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến ngày nay, Sđd, tr 80.Ở địa phương Thời Lý, cả nước được chia thành 24 lộ và một số đạo, trại, châu. Dưới lộ có huyện, hương. Năm 1242, nhà Trần chia lại địa giới hành chính thành 12 lộ. Dưới lộ là phủ, huyện, xã. Đứng đầu lộ, phủ là An phủ sứ, Trấn phủ sứ, Tri phủ. Đứng đầu châu là Tào vận chánh phó sứ, Tri châu. Đứng đầu huyện có Lệnh úy, Chủ bạ. Xã được chia thành 2 loại Xã lớn do Đại tư xã đứng đầu; Xã nhỏ do Tiểu tư xã đứng đầu. Tất cả đều do nhà nước bổ Lý, các quan lại hầu hết đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Sang thời Trần, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều đều giao cho vương hầu, quý tộc nhà Trần nắm giữ. Do vậy, quyền lực tập trung vào tay nhà nước trung ương.– Quân đội Nhà nước Lý – Trần chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh. Tổ chức quân đội khá quy củ và chặt chẽ. Quân đội thời Lý – Trần có cấm quân bảo vệ kinh thành và nhà vua và quân các lộ, phủ. Bộ phận quân thường trực được chia làm 5 phiên, thay nhau về cày cấy. Đó là chính sách “ngụ binh ư nông”, vừa có tác dụng đảm bảo sản xuất, vừa đảm bảo số quân cần thiết. Riêng thời Trần, lực lượng quân đội của các vương hầu rất mạnh, góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông.– Luật pháp Năm 1042, nhà Lý biên soạn và cho ban hành bộ luật Hình thư. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam. Sang thời Trần, nhà nước cho soạn Quốc triều hình luật 1230. Nội dung chủ yếu của pháp luật thời Lý – Trần là đều nhằm bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền, quyền lợi của giai cấp thống trị đặc biệt là vua và tầng lớp quý tộc. Đối với tội phản nghịch, phản quốc bị xếp vào tội thập ác thì bị trừng trị rất nặng. Bên cạnh đó, nhà nước cũng rất nghiêm khắc trong việc giữ gìn phép nước, bảo vệ sản xuất, củng cố an ninh, quốc chung, pháp luật thời Lý – Trần mở đầu thời kỳ pháp luật thành văn và đưa pháp luật chính thức đi vào cuộc sống. Tinh thần pháp trị ngày càng cao nhưng cái gốc là nhân đức vẫn được chú trọng. Đây là nét đặc sắc trong pháp luật thời Lý – Trần, tuy tính đẳng cấp và giai cấp vẫn rõ nét.– Đối ngoại Tiếp tục thực hiện chính sách ngoại giao tích cực, chủ trương giao hảo với các nước xung quanh nhưng kiên quyết chống trả các hành động xâm phạm đất đai, bảo vệ độc lập.– Xã hội Thời Lý – Trần chế độ đẳng cấp đóng vai trò quan trọng, xã hội chia thành 3 đẳng cấp+, Đẳng cấp thứ nhất gồm quý tộc thân thuộc và quan chức. Đẳng cấp này nắm mọi đặc quyền, đặc lợi.+, Đẳng cấp thứ hai là dân thường gồm địa chủ, nông dân, thợ thủ công, thương nhân. Đây là lực lượng sản xuất chính, phải chịu mọi nghĩa vụ đối với nhà nước đóng thuế, đi lao dịch.+, Đẳng cấp thứ ba là điền nô, gia nô, nô tì. Đây là đẳng cấp thấp kém nhất trong xã hội. Số lượng ngày càng tăng khi chế độ điền trang phát bị xã hội thời Lý – Trần phân hóa thành các đẳng cấp song trong một chừng mực nhất định, mối quan hệ giữa vua quan và dân còn tương đối gần gũi, chan hòa. Sự phân biệt đẳng cấp chưa gay gắt như các giai đoạn sau.* Về kinh tế thời Lý – TrầnRuộng đất Ruộng đất công làng xã là bộ phận ruộng đất lớn nhất thời Lý – Trần. Do dân số ngày càng tăng nên nhà nước rất chú trọng đến vấn đề khai hoang, lập làng. Nhà nước đặt chức đồn điền sứ chuyên chăm lo việc mộ dân đi khai hoang. Do vậy, các vùng ven sông, ven biển được khai phá ngày càng nhiều, đất đai ngày càng mở rộng. Phần lớn các làng ở Bắc bộ và Trung bộ được thành lập vào thời kỳ này. Đặc biệt là dưới thời Trần, năm 1266, nhà Trần khuyến khích các vương hầu, quý tộc đi khai hoang, lập làm điền nghiệp vẫn là nền tảng chủ yếu. Sản xuất nông nghiệp được nhà nước khuyến khích như xây dựng đê điều và thành lập các cơ quan chuyên trách về đê điều đặt chức Hà đê sứ, bảo vệ sức kéo, kêu gọi dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội, cấm buôn bán hoàng nam làm nô tỳ, khuyến khích khai hoang lập điền trang… Thậm chí, vào những năm mất mùa đói kém, nhà nước giảm thuế hoặc miễn thuế cho nông dân, phát chẩn cho dân nghèo. Những chính sách này có tác dụng tích cực, bảo đảm nhân công, sức kéo và khuyến khích sản xuất ngông nghiệp phát triển, năng suất tăng, đời sống nhân dân ổn thương nghiệp Các ngành nghề thủ công phát triển đều khắp và đa dạng. Ở trung ương, triều đình cho mở rộng các quan xưởng còn gọi là Cục bách tác, chuyên sản xuất binh khí, đồ trang sức, đóng thuyền, đúc tiền, xây cung điện… cho nhà nước. Ở địa phương, các làng nghề, các phường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. Các ngành nghề ươm tơ dệt vải, làm đồ gốm, làm giấy, làm đồ trang sức… rất phổ biến. Bốn công trình to lớn, thể hiện sự lao động sáng tạo của người thợ thủ công Đại Việt bấy giờ là chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng phật Quỳnh Lâm và tháp Báo Thiên. Những công trình này được xếp vào “An Nam tứ đại khí”.Buôn bán trong và ngoài nước khá phát đạt. Nhiều chợ làng và liên làng mọc lên khắp nơi. Nhà Lý – Trần cho đúc tiền đồng để tiện việc trao đổi, các đơn vị đo lường được thống nhất. Thăng Long lúc bấy giờ có 61 phường, chia thành hai khu vực kinh thành và phố phường. Các phường ở Thăng Long vẫn còn mang nặng tính làng xã, buôn bán nhiều hơn sản xuất. Đặc biệt, thời Lý – Trần, thuyền buôn của các nước Gia Va, Xiêm La, Hồi Hột… đã đến buôn bán với nước chung, trong suốt 4 thế kỷ, với nhiều chính sách và biện pháp tích cực của vương triều Lý – Trần, nhân dân ta đã xây dựng được một nền kinh tế tự chủ, toàn diện, vừa đảm bảo được đời sống, vừa đáp ứng được nhu cầu của các cuộc kháng chiến lâu dài, bảo vệ độc lập dân tộc.Nguồn tham khảo Trần Văn Thức, Giáo trình tiến trình lịch sử Việt Nam Xử Nữ * Tổ chức- Quân đội thời Lý gồm hai bộ phận cấm quân và quân địa Thi hành chính sách “ngụ binh ư nông” gửi binh ở nhà nông cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng và thanh niên đăng kí tên vào sổ nhưng vẫn ở nhà sản xuất, khi cần triều đình sẽ điều Quân đội nhà Lý có quân bộ và quân thủy, kỉ luật nghiêm minh và được huấn luyện chu Vũ khí trang bị cho quân đội gồm giáo mác, đao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá,...* Nhận xét- Quân đội nhà Lý được tổ chức quy củ, chặt chẽ và khá hùng Chính sách “ngụ binh ư nông” là một chính sách sáng tạo và phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Trả lời hay 2 Trả lời 17/09/21 Song Tử - Quân đội nhà Lý được chia làm 2 bộ phận cấm quân và quân địa phương.+ Cấm quân là quân đội được tuyển chọn kĩ càng về lí lịch và sức khỏe, có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua và kinh thành.+ Quân địa phương gọi là lộ quân, sương quân có nhiệm vụ canh phòng các lộ, phủ, áp dụng chính sách "ngụ binh ư nông".- Quân đội thời Lý bao gồm các binh chủng, thủy binh, kị binh và tượng binh, kỉ luật rất nghiêm minh, được rèn luyện chu Vũ khí có giáo mác, dao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá …→ Quân đội nhà Lý được tổ chức khá chu đáo, quy củ và hùng mạnh. Trả lời hay 1 Trả lời 17/09/21 Người Dơi - Tổ chức thành hai bộ phận cấm quân và quân địa phương- Nhận xét Quân đội thời Lý bao gồm các binh chủng, thủy binh, kị binh và tượng binh, kỉ luật rất nghiệm minh, được rèn luyện chu đáo. Vũ khí có giáo mác, dao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá…=> Quân đội nhà Lý được tổ chức khá chu đáo, quy củ và hùng mạnh. 0 Trả lời 17/09/21

quân đội thời lý