Trên cơ sở công nhận thành quả nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học về tiếng Việt bao gồm 2 thành phần Môn Khơ Me và Tày Thái, chúng tôi giả thiết rằng: người Việt cổ có nguồn gốc bản địa, nói ngôn ngữ Tiền Việt Mường. Sau đó, muộn nhất, vào thời văn hóa Đông
Văn bia chữ Hán việt Nam giá cực tốt, hoàn tiền 111% nếu hàng giả, nhiều mã giảm giá hôm nay, freeship, giao nhanh 2h. Mua ngay! được xuất bản trong khuôn khổ sách tham khảo phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu của Học vện KHXH thuộc Viện hàn lâm KHXH VN. Cuốn sách
Học từ mới, các từ mới được cộng thêm phần giải thích nghĩa rõ ràng bằng chữ Hán Việt, tiếng Anh và nghĩa thuần Việt. Phần này giúp người học tiếp cận các từ vựng mới. Bổ sung dần dần nguồn tri thức về hán ngữ cho người học. Chú thích bài học Phần chú thích ghi lại các câu văn, cách diễn đạt mới.
Do những yêu cầu trên chữ Nôm chữ viết riêng của người Nam đã ra đời. Về đại thể, có thể chữ Nôm là một hệ thống chữ viết ghi âm, dùng những chữ Hán ( hoặc một bộ phận của chữ Hán ) được cấu tạo lại để ghi tiếng Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết. Ngay từ
- Tôi mê tiếng Việt. Tôi nghĩ rằng muốn giữ gìn bản sắc văn hóa VN thì trước tiên phải học tiếng Việt từ nguồn gốc - tức là chữ Nôm trước đây và muốn mình có thể sử dụng chữ Hán - Nôm bằng phần mềm máy tính.
cash. Bạn đang quan tâm đến Các Tác Phẩm Văn Học Chữ Hán phải không? Nào hãy cùng đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy! Tác phẩm văn học việt nam viết bằng chữ hán Có thể bạn quan tâm Tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục – Chị em Thúy Kiều – Nguyễn Du – Văn 9 Giới thiệu về tác giả Nam Cao và tác phẩm Lão Hạc – Nguyễn Lê Tín Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, tập 2 – Chí Phèo – Nghệ thuật thoát ra từ những kiếp lầm than – Sống chết mặc bay – Phạm Duy Tốn Ngoài văn học dân gian truyền khẩu, còn có một dòng văn học viết, đầu tiên là chữ Hán, sau đó là chữ Nôm, sau đó là chữ quốc ngữ như ngày nay. dòng văn học này đã trải qua nhiều thời kỳ. các văn bản sớm nhất được tìm thấy có niên đại từ thế kỷ thứ 10, được chia thành hai thời kỳ từ thế kỷ X đến thế kỷ X từ đầu thế kỷ 20 đến nay. bạn đang xem tác phẩm văn học bằng chữ Hán từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 12 Xem thêm Giới thiệu về tiểu thuyết Tắt đèn và đoạn trích Tức nước vỡ bờ – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng Vào thời kỳ này, văn học viết được viết bằng hai loại chữ viết chữ Hán và chữ viết. mặc dù sau một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt không bị đồng hóa mà dần dần hình thành nên bản sắc dân tộc riêng biệt. văn học du mục xuất hiện từ rất sớm, nhưng từ thế kỷ 16 văn học du mục mới thịnh hành và đến thế kỷ 16 văn học du mục chiếm một vị trí rất quan trọng. sự phát triển của ý thức dân tộc đã tạo điều kiện cho văn học du mục phát triển. Xem Thêm BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ TẠI VIỆT NAM – Luật sư Đà Nẵng – Luật sư FDVN văn học và chữ viết hình thành và phát triển trong nhiều thế kỷ, văn học chữ Hán đã giữ vị trí thống trị trừ một vài trường hợp, chẳng hạn như triều đình hồ và tỉnh lỵ, nơi quan trọng ngôn ngữ du mục, mặc dù họ sử dụng chữ Hán, các tác phẩm văn học này vẫn mang đậm bản sắc và hồn quê Việt Nam như Bài thơ nam quốc sơn hà lý thương kiều, hịch tướng sĩ trấn hưng đạo, thơ ca ngợi chiến công của nghĩa quân và quân dân ta. ông già, trần quang khai, sư phạm mạnh mẽ, cáo binh ngoại nguyễn trai, Sau đây là những bộ sử được viết với tinh thần dân tộc đậm nét Đại Việt sử ký toàn thư của bệnh viện liên khoa, hoàng lê nhất thống chí của ngoại gia văn phải, w. Vào thế kỷ 15, văn học chữ Hán vẫn còn thịnh hành. tuy nhiên, văn học du mục vẫn liên tục phát triển. Nguyễn Trãi là người bảo vệ chữ Quốc ngữ và vận dụng chữ viết vào sáng tạo văn học. Tuyển tập thơ văn thời kỳ này là một trong những tuyển tập thơ lục bát cổ nhất còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Xem thêm Ý nghĩa nhan đề Những ngôi sao xa xôi – Giải thích nhan đề Những ngôi sao xa xôi Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 10, văn học du mục phát triển mạnh mẽ và thống trị văn học. các nhà thơ lớn đã khai thác triệt để ngôn ngữ của dân tộc, nhiều tác phẩm tiêu biểu đã ra đời thơ vịnh xuân hương, nguyễn du truyện kiều, đoạn thi tập và ngâm khúc chinh phục, ngâm thơ Nguyễn Cung oán ngâm khúc. w, từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ 20, các tác phẩm văn học chữ Quốc ngữ dần xuất hiện. Văn học Việt Nam ngày nay không chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc mà còn tiếp thu văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp làm cho văn học Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng hơn về thể loại. Văn học Việt Nam đã dần dần thoát khỏi phong cách cổ điển bằng những tác phẩm kinh điển có sức nặng hơn, uyển chuyển hơn, chính xác hơn, gần gũi hơn với ngôn ngữ đời thường. năm 1925, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam được xuất bản “tam tam” của hoàng ngọc thất, “canon quả” của nguyễn ngữ lục. trào lưu thơ mới được coi là một cuộc “cách mạng” về thơ, những quy tắc gò bó, những lối diễn đạt thông thường, những công thức bị phá vỡ, cảm xúc được thể hiện tự nhiên hơn, cởi mở hơn, lãng mạn hơn. Nhiều nhà thơ tài năng đã xuất hiện trong phong trào thơ mới thơ trong lu, thế lu, vũ đình, xuân điều, huy cận, tân da, nguyệt. Xem Thêm Nguyên lý tảng băng trôi trong tác phẩm Ông già và biển cả – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng Về sự trỗi dậy của văn học lãng mạn, có một nhóm tự lực văn đoàn được thành lập vào năm 1932, bao gồm nhất linh, khai hung, hoàng đạo, thach lam, và một số tác giả trẻ, w. Dù dòng văn học này đã có nhiều tiến bộ trong sáng tác nhưng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng. Xem thêm Vẻ đẹp tiềm ẩn nhân vật chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn nam cao Bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn, cần phải kể đến văn học hiện thực phê phán. các tác phẩm của trào lưu văn học này rất chân thực và thấm nhuần tinh thần khoan dung. phong trào này đã cho ra đời những tác phẩm thực sự xuất sắc cả về nội dung và hình thức như Bước chân cuối cùng của nguyễn công tử, Đèn đường tắt, Vỡ đập, Vũ trong phung phí, Bi bo. by nguyen hong, chi pheo by nam cao, w. Cùng với hai phong trào trước, còn có một phong trào văn học cách mạng không lưu hành hợp pháp mặc dù đôi khi nó lưu hành một cách hợp pháp. trào lưu văn học này bao gồm các bài thơ của các chiến sĩ cách mạng trong tù và các tác phẩm đăng trên báo nước ngoài. Các tác giả tiêu biểu của phong trào này là Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thủy, Cách mạng tháng Tám thắng lợi, văn học hiện đại phát triển mạnh mẽ. những tác phẩm ra đời trong thời kỳ này như những cột mốc đánh dấu từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Tác phẩm Con trâu của Nguyễn Văn Phong, Vùng mỏ đất võ, Cuộc đụng độ của Nguyễn Đình Thi, Văn chính luận của Nguyễn Tuân, W. nó là kết quả của văn học trong những năm kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng đã ra đời phản ánh cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước, như Ông đồ. Trong gia đình có bảy người mẹ là người hầu của Phan Tứ, ở đất Quảng, mẹ là người nắm giữ binh khí của Nguyễn Thị. và các tác phẩm thơ Quê hương giang nam, Dáng đứng Việt Nam, Tiếng chim hót thu bon, Gió thổi cát trắng xuân quynh, w. Ngày nay, các nhà văn, nhà thơ đang cố gắng đưa văn học Việt Nam lên một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình và ổn định. Nguồn Danh mục Văn Học Vậy là đến đây bài viết về Các Tác Phẩm Văn Học Chữ Hán đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!
Nhớ lúc bấy giờ đâu là năm 1928, tôi ở Sài Gòn có viết mấy bài bằng chữ Hán, ký tên Khải Minh Tử, gửi cho Hoa kiều Nhật báo ở Chợ Lớn, được họ lần lượt đăng tải và có để lời khen tặng ở một cái mào đầu. Trong mấy bài ấy có một bài đầu đề giống như đầu đề trên đây, đại ý tôi khoe với người Tàu rằng văn học chữ Hán ở nước Việt Nam thuở xưa phát đạt lắm. Tôi lược cử ra những thi văn đời Lý, đời Trần cho đến đời Nguyễn gần đây. Cuối cùng, tôi cho họ biết rằng các nhà văn chữ Hán xứ này có một cái đặc sắc là hay tự tạo ra văn thể mới. Tức như Thu dạ lữ hoài ngâm 秋 夜 旅 懷 吟 làm bằng thể lục bát gián thất; lại hai bài ca trù một bài đề là Bùi viên đối ẩm 裴 園 對 飲 của Nguyễn Văn Thắng; một bài đề gì và của ai không biết, mở đầu là Phong thanh nguyệt bạch, Tô Đông Pha xích bích chi du… 風 清 月 白 , 蘇 東 坡 赤 壁 之 遊 … Các văn thể ấy có phải là chính bên Tàu không hề có, mà nhờ tác giả Việt Nam chế tạo ra làm cho cái kho văn học chữ Hán thêm giàu? Lại nhớ như bài ấy, tôi đã có lần dịch ra quốc ngữ đăng lên một tờ báo nào đó mà tôi quên.[1] Lần này tôi viết bài này ở đây, tuy đầu đề giống nhau mà lập ý thì khác. Từng có người nói Lòng ái quốc không thể cứ một mực, có khi bởi nó mà mình nói tốt cho nước mình, cũng có khi bởi nó mà mình lại nói xấu cho nước mình. Hai lần tôi viết đây, chính tôi cũng không tự biết có phải bởi lòng ái quốc hay không; tôi chỉ thấy rằng lần trước viết bằng chữ Hán, đăng báo Tàu, đối với người Tàu, tôi có ý tuyên truyền cho tổ quốc Việt Nam; lần này viết bằng chữ ta, đăng báo ta, tôi muốn chỉ cho đồng bào thấy cái chân tướng của văn học cổ xứ mình. Như vậy chẳng là mâu thuẫn nhau? Tôi tưởng chả có gì đến nỗi. Một cái mề đay, hôm qua cho người ngoại quốc xem, tôi chỉ đưa bề mặt, hôm nay cho người bản quốc xem, tôi đưa luôn cả bề trái nữa, thế thôi. Trước hết tôi muốn bạn đọc biết rằng, viết bài này, tôi rứt không có ý chê hay trách các bậc văn sĩ tiền bối xứ ta. Nếu có những chỗ chỉ trích ít nhiều khuyết điểm của họ là chính để thấy rằng nền văn học của một nước nếu không lập lên trên tiếng nói của nước ấy thì đừng có mong nó được vững bền và rực rỡ. Người nước Nam, nói thì nói tiếng nước mình, viết thì viết chữ nước khác, tay còn không theo được miệng thay, bảo sao lời cho đạt được ý? Chính vì đó mà văn học chữ Hán của ta đã không thành ra một văn học chân chánh xứng với danh từ nó như của Trung Hoa. Ấy là một cái lầm chung của cả một thời đại từ xưa, chứ chẳng phải cái dở, cái bất tài riêng của từng người một mà đáng để cho chúng ta ngày nay chê hay trách vậy. Cái văn học cổ ấy hiện nay đã tiêu diệt đi, nhường chỗ cho văn học quốc ngữ, đó thật là một điều may mắn cho dân tộc chúng ta. Tuy vậy, đã có quan hệ với nhau một ngàn năm, trong cơn vĩnh biệt, chẳng nhiều thì ít, nó há lại chẳng có cái gì làm cho ta quyến luyến? Tôi muốn nói đương lúc văn học chữ Hán của người Việt Nam tàn tạ, đáng lẽ, trong nó, nếu có tác phẩm gì hay, cần phải dịch ra quốc ngữ để làm hòn đá tảng, không thì cũng một viên gạch, một tấm ngói cho cái lâu đài văn học mới sau này. Nhưng than ôi! Theo tôi thấy thì hình như không có, và nếu có cũng ít lắm! Cả thảy chỉ một món lịch sử, bòn đãi lắm may ra còn hữu dụng; kỳ dư, những thi, những văn, những tiểu thuyết, cái đáng gọi là văn học thực mặt, thì lại vắng vẻ làm sao! Thử hỏi từ thời Lý đến nay có một cuốn sách nào về hạng ấy có thể đại biểu cho một thời đại hay cho một cá nhân mà bây giờ chúng ta cần phải dịch ra mới được? Thật không có! Người Pháp sang đây, muốn biết văn chương tiếng An Nam thế nào thì họ đã dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du ra, vì nó xứng đáng đại biểu cho tiếng An Nam; còn chúng ta, chúng ta muốn biết văn chương chữ Hán của tổ tiên mình trong khoảng một ngàn năm vừa qua thì lại không tìm được một cuốn sách nào mà dịch hết! Đó chẳng phải một cái chứng cứ hiển nhiên, đủ thấy văn học chữ Hán của ta hồi trước còn ở dưới mực thủy bình? Nhưng không có thể chê trách những người học và viết chữ Hán trong một ngàn năm ấy được. Là vì chữ Hán không đủ dịch hết tiếng nói An Nam, không đủ ghi hết sự vật trong xã hội An Nam; ý tưởng của người An Nam không ngẫm nghĩ và phô bày bằng nó, thì làm sao hai đằng thân thiết với nhau cho được? Học sách vở của thánh hiền ngoại quốc, rồi nghĩ và viết ra cũng theo tư tưởng của thánh hiền ngoại quốc; những kẻ ấy khi họ hạ bút, họ có thể quên cả sự vật chung quanh mình và quên luôn cả mình nữa; những tác phẩm của họ không đại biểu cho thời đại được mà cũng không đại biểu được cho cá nhân, là lẽ tất nhiên. Cái công dụng của văn học là ở sự biểu hiệu và phê bình; mà, cho được biểu hiệu và phê bình, người mình lại dùng một thứ chữ không quen, không sành, hóa ra mất cả hai cái công dụng ấy. Chữ Hán ở bên Tàu lập nên nền văn học thế nào, còn ở bên ta thế nào, chỗ đó, phần nhiều người mình còn chưa thấy đến nơi. Ở bên Tàu tuy cũng có văn chương khoa cử, tức những bài làm để đi thi, lại cũng có văn chương thù ứng, tức như ở ta câu đối bức trướng; nhưng thứ văn chương ấy, họ không kể cho vào văn học. Văn học của họ đại khái chia làm hai hạng một về nghĩa lý, là những tác phẩm có quan hệ với kinh sử học thuyết; một về từ chương, là những tác phẩm thuần có tính chất mỹ văn. Ở đây, những người xưng là đại nho, như Chu Hy, Vương Thủ Nhân, phải có những trứ thuật về hạng trên; những người xưng là văn hào, như Hàn Dũ, Tô Thức, phải có những trứ thuật về hạng dưới. Nước ta, về hạng trên, phải kể như là không có. Vì dù có mà nó thấp thỏi, vụn vặt, không ra gì, thì cũng không kể được với ai. Cuốn Nho giáo 儒 教 của Trần Trọng Kim mới xuất bản gần đây, cho đi rằng nó không hoàn toàn nữa, thử hỏi một ngàn năm nay đã có người An Nam nào làm được cuốn sách bằng Hán văn nào như nó? Minh đạo 明 道 mười bốn thiên của Hồ Quý Ly, dám nghi bốn điều trong Luận ngữ 論 語 và công kích Tống nho, có lẽ còn đỡ đỡ, nhưng tiếc thay lại không truyền! Ngoài ra, những sách như Quần thư khảo biện 群 書 考 辩 của Lê Quý Đôn cùng những bài biện thuyết ngăn ngắn về sách xưa như trong tập Vĩ giã 葦 野 thì chưa hề phát minh được nghĩa gì to tát, chỉ đáng coi là một mớ tháp ký của học sinh, chẳng có giá trị là bao. Hồi nhà Trần có Chu An, trước đây bờ một trăm rưỡi năm ở Gia Định có Võ Trường Toản, đều là bậc đại sư nho, nổi tiếng như cồn, mà rủi cho dân tộc này làm sao, các ngài lại chẳng để lại một chữ gọi là có! Về hạng dưới, từ chương, để rồi dưới đây tôi sẽ nói đến. Ở đây tôi muốn cho bạn đọc biết ngay thử trong một ngàn năm ấy người mình học chữ Hán đã có sở đắc những gì. Hầu hết người đi học ở nước ta chỉ biết có một lối văn khoa cử. Xưa nay những người nổi tiếng học giỏi và hay chữ đều chỉ bởi nhớ nhiều điển cố để làm bài và làm bài hay. Cho đến các cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng gần đây cũng đều thế cả. Tôi còn nhớ trong sách dã sử có một nơi chép truyện ông Bảng nhãn gì đó ở làng Mộ Trạch, lúc chưa đỗ, đã lừng tiếng một thời. Một hôm có vị danh sĩ gặp ông, muốn thử tài, ra cho một bài phú, đề là Kỳ lân du uyển hựu 麒 麟 遊 苑 囿. Tức thì ông cất bút thảo ngay bốn câu mở Qui phi xuất lạc, long bất trình hà, y bỉ hữu hùng chi quốc, đô vu trác lộc chi a 龜 非 出 洛 , 龍 不 呈 河 , 意 彼 有 熊 之 國 , 都 于 涿 鹿 之 阿[2]. Vị danh sĩ kia thấy viết đến đó đã kinh hoàng sửng sốt, bái phục là thiên tài rồi, không để làm hết bài nữa! Xem ý người chép sử như cho cái việc ông Bảng nhãn làm đó là một kỳ công trong học giới và bốn câu phú đó là một kiệt tác trên văn đàn, không thể không trịnh trọng chép vào sách của mình để truyền cho hậu thế! Đến các ông trạng, như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, ông nào cũng sính câu đối, đã làm cho một nhà viết văn khảo cứu, ông Trần Thanh Mại, có lần phải gắt lên trong một bài ở báo Phụ nữ thời đàm. Rồi đến Nguyễn Thị Điểm, một nữ tài tử nổi danh thuở Hậu Lê, cũng tại câu đối mà thôi Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi; Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết 白 蛇 當 道 , 季 坺 劍 而 斬 之 , 黃 龍 負 舟 , 禹 仰 天 而 嘆 曰 cùng với Đối kính họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm; Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân 對 鏡 畫 眉 , 一 點 翻 成 兩 點 , 臨 池 玩 月 , 隻 輪 轉 作 雙 輪[3], thế là đã rất mực tài tình, làm cho tác giả Nam hải dị nhân liệt truyện tỏ ý phục lăn ra! Giữa cuộc bang giao hai nước, muốn khoe tài văn học của nhau, người ta cũng đã sính chữ Hán một cách oái oăm đáo để. Đây là hai truyện có chép trong Tiền biên liệt truyện 前 編 列 傳 Dưới triều chúa Nguyễn Hy Tôn,[4] chúa Trịnh lấy danh nghĩa vua Lê, sai sứ mang tờ sắc vào phong cho chúa Nguyễn chức Thái phó quốc công. Bấy giờ Chúa Nguyễn có vị mưu thần Đào Duy Từ khuyên hãy tạm nhận rồi sau sẽ trả. Đến khi trả sắc, Duy Từ vẽ làm một cái mâm đồng hai đáy, bỏ tờ sắc vào trong, kèm một mảnh giấy có viết mười sáu chữ, luôn với lễ vật, sai sứ đem ra bắc dâng Chúa Trịnh. Sau, cái mâm đồng khui ra, thấy mười sáu chữ ấy là Mâu nhi vô dịch, mịch phi kiến tích, ái lạc tâm trường, lực lai tương địch 矛 而 無 腋 , 覔 非 見 跡 , 愛 落 心 腸 , 力 來 相 敵 Chúa Trịnh cùng cả đình thần đều chẳng hiểu nghĩa chi. Chỉ một mình Thiếu úy Phùng Khắc Khoan biết được mà thôi, ông ấy giải ra thành bốn chữ Dư bất thụ sắc 予 不 受 敕, nghĩa là ta chẳng nhận lời sắc.[5] Lần khác, dưới triều Chúa Nguyễn Thái tôn[6], người Trịnh muốn thử nhân vật Nam triều, bèn đưa vào tặng một cái trống lớn với một phiến gỗ vuông dài chừng một thước, trên mặt gỗ viết ba chữ Hồ bất thực, 狐 不 食 thếp vàng. Chúa Nguyễn hỏi khắp mặt triều thần, không ai biết gì cả. Sau hỏi đến Võ Đình Phương là tay bác học thời ấy, Đình Phương thưa rằng “Ba chữ ấy chỉ là người Bắc nói lái để thử ta có biết không mà thôi. Hồ bất thực 狐 不 食 nghĩa là cáo chẳng ăn. Mà cáo chẳng ăn thì cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo. Vậy phiến gỗ này nó là bằng cây gạo”. Nghĩa lý mắc mỏ chỉ có thế; còn cái trống thì khi đem đánh, nó cũng chẳng khác gì cái trống thường. Từ đoạn dẫn dã sử đến đây, tôi muốn trưng ra mấy cái chứng cứ để thấy rằng cái sở đắc của mình học chữ Hán chỉ có thế. Chỉ có một cái tiểu xảo trong văn học, tiếng Pháp gọi là “Jeu de mots”[7] là người mình hơi có khiếu sở trường. Thì đó, bốn câu phú của ông Bảng nhãn, hai câu đối của Nguyễn Thị Điểm, mười sáu chữ nọ với ba chữ kia làm cho Phùng Khắc Khoan và Võ Đình Phương có dịp trổ tài, hết thảy đều là một cách “Jeu de mots” chứ có gì lạ! Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng. Hay chữ có tiếng nhất nước như ông Vũ Phạm Hàm cũng chỉ nhờ bài phú Điệu cao sơn đại xuyên trong khoa đậu hội, như ông Phan Bội Châu cũng chỉ nhờ bảy bài kinh nghĩa kiêm trị trong khoa đậu giải nguyên. Ông Vũ Phạm Khải được đức Dực Tôn ban khen là thế, tưởng có cái đặc sắc thế nào, ngờ đâu đọc văn tập của ông làm cho mình thất vọng Nhan nhản, hết bài tự tặng người này, đến bài khải dâng người khác, té ra trời phó cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là chỉ đi thù phụng thiên hạ mà thôi! Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng, và trong văn học, họ chỉ sở trường một cách “Jeu de mots” mà thôi thì cũng chẳng quá nào! Nói về thi, văn, tiểu thuyết, không kể phần dở, dù phần hay là phần rất ít đi nữa là của người mình cũng không sánh kịp của người Tàu. Bởi chúng ta cứ rập theo khuôn sáo họ, hứng lấy cặn bã họ, người An Nam mà văn chương chẳng có một chút gì là đặc tính của An Nam, thành thử chúng ta, dù đến trên loài mỹ văn ấy, cũng không lập nổi một nền văn học riêng cho mình. Một vài ông vua nước Nam đã làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm rằng văn học nước mình cũng ngang hàng với Trung Quốc. Sự thác giác ấy làm hại cho quốc dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ. Vua Lê Thánh Tôn một đêm ngự bóng mát chốn nội đình, trông lên trời thấy vầng trăng đương sáng tỏ bỗng bị che khuất bởi đám mây bay ngang, đám mây bay khỏi rồi, vầng trăng lại sáng tỏ như trước, cảm xúc làm nên hai câu 素 蟾 浩 浩 玉 盤 清 , 雲 弄 寒 光 暗 復 明 “Tố thiềm hạo hạo ngọc bàn thanh, vân lộng hàn quang ám phục minh”.[8] Thế mà ngài dám tự phụ rằng không ai làm được, cho đến Đỗ Phủ cũng không, chỉ một mình ngài làm được mà thôi. Ngài lại còn đem hai câu ấy so sánh với bốn câu giữa trong bài 錦 瑟 “Cẩm sắt”[9] của Lý Nghĩa Sơn mà nói rằng bốn câu ấy của Lý, về phần mầu lạ xinh xắn thì bằng hai câu của ngài, nhưng về phần sáng suốt trong trẻo thì hãy còn kém. Lần khác, Thánh Tôn phê bình hai câu của Thân Nhân Trung, quan đại học sĩ tại triều mình 瓊 島 夢 殘 春 萬 頃 , 寒 江 詩 落 夜 三 更 “Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn khoảnh, hàn giang thi lạc dạ tam canh”,[10] cũng hợm hĩnh rằng dù cho Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức cũng vị tất đã nghĩ được ra. Mẩu truyện này có chép trong sách Việt sử thực lục cuốn 13, tôi nhớ mà thuật ra đây chứ không dịch đúng nguyên văn. Gần nay người ta còn truyền tụng hai câu thơ phê bình thi văn bản triều 文 如 超 适 無 前 漢 , 詩 到 從 緌 失 盛 唐 “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”[11] mà nói là của vua Thiệu Trị hay của vua Tự Đức. Của vua nào cũng thế, cái công hiệu thổi phỉnh lòng tự khoa của người nước cũng chẳng kém mẩu chuyện vừa kể của Lê Thánh Tôn. Dưới triều vua này, vũ công với văn trị đều cực thịnh. Bao lần đánh Chiêm Thành, Bồn Man, Lão Khoa, đánh đâu thắng đó, làm cho vua Tàu cũng phải nể. Sử chép ngày 27 tháng 8 năm Hồng Đức 11, sau khi đại phá Lão Khoa, vua nhà Minh có đưa sang một tờ sắc, nói “Vừa rồi tỉnh thần Vân Nam có tâu về, nói An Nam quốc vương đã vô cớ cử binh công phạt xứ Lão Khoa, hiện chưa lui binh, còn muốn sang xâm lược xứ Bát Bách Tức Phụ nữa. Vì vậy sắc sang hỏi vua nếu có, phải lui binh ngay; còn không thì phúc tấu lại, để triều đình xét và bắt tội kẻ man báo”. Liền ngày ấy vua Thánh Tôn họp triều thần lại thảo lời phúc tấu, đại ý nói “Có 13 tên dân bản quốc trốn sang bên Lão Khoa; nhân đó sai người đến tại biên giới đòi về, thì đã đem xe chở chúng về rồi; chứ còn những việc đánh Lão Khoa và Bát Bách Tức Phụ vốn không biết tới”. Bản phúc tấu ấy đưa sang, vua nhà Minh vẫn làm thinh, coi như là sự thực. Nhưng sự thực của sự thực là trước đó một năm, tháng 8 năm Hồng Đức thứ 10, vua Thánh Tôn quả có sai các tướng đem mười tám vạn binh, chia làm năm đạo đi đánh Lão Khoa, vào tận đô thành nước ấy, đuổi vua, bắt nhân dân của họ, rồi còn đánh dốc đến ranh sông Trường Sa, nơi Lão Khoa giáp với Diến Điện, khi được văn thơ người Diến kháng nghị mới chịu rút quân về. Ấy, vua Thánh Tôn ngài đã quen mui, tưởng việc văn cũng như việc võ về việc đánh Lão Khoa, có nói làm không mà vua Minh cũng nghe được, thì về việc thi văn, dở nói làm hay, người Tàu còn có ai dám cãi lại ngài? Nhưng “văn chương là việc ngàn xưa”, dở hay còn có đó, không ai nói theo ý riêng mình được. Thực ra thì câu thơ của vua không đến nỗi dở chứ nó khí tầm thường quá. Nội bảy chữ đầu đã trùng điệp với nhau rồi “tố thiềm hạo hạo” có khác gì với “ngọc bàn thanh”, chỉ có một nghĩa là vầng trăng sáng. Thế mà câu dưới còn tiếp hai chữ “hàn quang” nữa, cũng lại sáng trăng! Về ý thì rất xoàng, có gì lắm mà bảo không thi nhân nào làm nổi? Đến đem mà sánh với bốn câu của Lý Nghĩa Sơn thì thật là quá phận. Bốn câu này hay mà có vẻ thần bí, đến nỗi từ đời Tống đến nay có bao nhiêu nhà chú thích đã giải nghĩa không giống nhau. Còn câu của vua rất dễ dàng, hễ ai biết chữ là hiểu được. Nó vốn không đồng một tánh chất, đem mà sánh nhau, khác nào đem cái đền Ngọc Sơn giữa hồ Hoàn Kiếm sánh với Kim tự tháp bên Ai Cập! Sau nữa, câu của Thân Nhân Trung, nếu cho vế trên là được thì vế dưới thật không xứng. Nhất là hai chữ “thi lạc” e đến không có nghĩa. “Thi” làm sao lại “lạc” được? Chỉ hai chữ không có nghĩa đủ làm hỏng cả câu. Thế thì hẵng làm cho có nghĩa đã rồi hãy nói chuyện bầy vai với Lý, Đỗ, Âu, Tô! Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn, đáng gọi là thịnh hơn các triều trước; nhưng nếu bảo vượt quá cả Hán, Đường thì lố quá. Nguyễn Văn Siêu còn có Phương Đình văn tập truyền lại, thức giả còn có thể đem đọ với văn Tiền Hán thử ra sao. Tùng Thiện Vương có tập thi Thương Sơn, Tuy Lý Vương có tập thi Vĩ Giã, muốn biết giá trị nó đối với Thịnh Đường thế nào, đọc qua thì biết. Tôi thì tôi tin quyết rằng Hán Đường là kẻ sáng tạo, Siêu, Quát, Tùng, Tuy là kẻ học đòi; không bao giờ kẻ học đòi lại vượt qua kẻ sáng tạo cho được. Nói cho công bằng ra thì trong ngần ấy tác giả, duy có Cao Bá Quát, là cả thi lẫn văn đều đáng sắp ngang hàng với đệ nhất lưu tác giả ở Trung Quốc mà không hổ mà thôi. Rủi cho ông, vì mang tội “đại nghịch” nên tập không được in, tên họ bị vùi dập đi hơn nửa thế kỷ đến gần nay mới có người nhắc đến! Những lời tự khoa thái quá ấy cần phải cải chánh. Sau khi cải chánh chúng ta mới có thể tìm thấy cái mực thực của văn chương chữ Hán nước mình. Đại để trong các món, duy món thi, người mình còn có thể làm được. Vì thi có khi dùng một số chữ rất ít, chỉ mười mấy hay vài mươi chữ cũng thành một bài, không cần phải có cái lực lượng hùng vĩ mới làm nổi; lại trong thi, về mặt văn pháp cũng rộng rãi, không nhặt nhiệm lắm như tản văn. Hai điều kiện khoan dung đó thích hợp với cái tài vận dụng chữ Hán của người An Nam, cho nên về văn chương chữ Hán, người An Nam đã làm món thi nhiều hơn các món khác, và về món thi cũng có sở trường hơn các món khác. Trừ ra thơ của một hạng thi nhân gọi là “thợ thơ” thì trong làng thơ chữ Hán của ta không phải không có thơ hay. Nhất là vào hồi Lý Trần, bấy giờ kẻ học chưa nhiễm phải cái độc khoa cử nên trong ngâm vịnh thường có nhiều tánh tình và phong thú. Bạn đọc hãy tìm chứng cứ trong pho Hoàng Việt thi tuyển. Tiếc thay hạng thơ ấy, chúng ta chỉ có thể thưởng thức ở các tác phẩm rải rác mà không thể chỉ hẳn ra được một tác giả nào. Mãi đến gần đây mới được một Cao Bá Quát. Ông này, theo thời luận thì nổi tiếng về văn, nhưng văn của ông ít truyền lắm, ngày nay chỉ còn bộ Cao Chu Thần thi thảo chép tay, ấy là thơ của ông, chừng được ba bốn trăm bài. Ba bốn trăm bài ấy giá ở bên Tàu thì nó đã được in ra, làm cho tác giả nhảy lên đứng ngang hàng với Đỗ Thiếu Lăng, Tô Đông Pha chẳng hạn, nhưng ở nước ta phải đành mai một! Đọc Cao Chu Thần thi thảo, thấy cái thân thế, cái phẩm cách, cái tư tưởng của tác giả nó mà khiến mình trạnh lòng tương cảm ở sau sáu, bảy mươi năm. Con người ấy mà ở vào thời đại ấy trong đất nước này, nếu chẳng phải thi đỗ làm quan cho tột bực đi thì còn làm gì nữa mà không làm giặc! Ngoài ra, cũng có những thi tập của những người khác đã được ấn hành, nhưng lại không vì cớ ấn hành mà không mai một! Hạng thơ ấy nói vượt qua Thịnh Đường thì khí quá, dù cho giống hệt với Thịnh Đường đi nữa mà không có ngụ một chút tánh tình quan hệ mảy may với thời đại thì cũng bị đào thải bởi luật tự nhiên. Trái lại, một vài câu xuất sắc, khiến người ta cảm được, như “Học đắc trường sinh bí, bất cầu thiên hạ văn” thơ hái thuốc[12], “Sơn nhân tự lai vãng sơn thâm nhân bất tri” thơ đi đường núi của Nguyễn Hương[13]; “Cô phẫn khí thành thiên khả vấn, độc tinh nhân khứ quốc cơ không” thơ vịnh Khuất Nguyên của Phạm Lam Anh thì lại nhờ được người ta truyền tụng mà còn ghi trong sử sách.[14] Văn, tản văn hay biền văn cũng vậy, như trên đã nói, khó hơn thi, cho nên người mình ít làm và làm cũng ít hay. Phú của Mạc Đĩnh Chi thì sao cho bằng phú của Giả Nghị, của Tô Thức? Ký của Trương Hán Siêu thì sao cho bằng ký của Hàn Dũ, của Âu Dương Tu? Chính người An Nam lại ưa phóng tụng văn Tàu mà nhãng quên văn nước mình, chẳng phải là không có cớ. Hịch của Trần Quốc Tuấn, đại cáo của Nguyễn Trãi mà được chúng ta coi làm báu, chẳng qua nhờ trong đó nhuộm đậm màu quốc gia đấy thôi, chứ cứ kể văn chương còn chưa thấm vào đâu. Tiểu thuyết, không có trường thiên, chỉ có đoản thiên mà cũng không được đúng với tên ấy lắm, tức như Truyền kỳ mạn lục và Vân nang tiểu sử[15] Những tác phẩm ấy, thứ thì tuyệt bản rồi, thứ thi còn chép tay, nhưng, giả sử từ trước người ta đã in ra cho thật nhiều là cũng không bán tranh nổi với Liêu trai chí dị hay Tử bất ngữ của Tàu. Kể ra thì hết thảy văn chương các món, đằng lượng cũng như đằng phẩm, ta đều còn kém Tàu xa. Cái kém ấy đáng lắm, không ai trách được. Chỉ trách sao còn có người không chịu là kém mà lại kiếm lời tưng bốc nhau, nói trái với sự thực, đã gieo một sự mậu ngộ lớn vào trong óc mọi người luôn với sự kiêu căng nữa. Bài này vì đầu đề là khái luận, cho nên về các tác phẩm và tác giả không thể nói tường tận hơn, tôi cũng lấy làm đáng tiếc, nhưng tôi phải ngừng bút ở đây để bắt đầu kết luận đi. Lúc hai mươi tuổi, tôi được đọc cuốn Việt Nam vong quốc sử ở Nhật Bản gởi về; ngoài cái cảm tưởng mới lạ nẩy ra cho tôi lúc bấy giờ, tôi còn nhờ đó bắt đầu có một điều xét nhận về sự người An Nam viết chữ Hán. Cuốn sách ấy, ông Lương Khải Siêu đứng tác giả, nhưng cả phần chính văn do cụ Phạn Bội Châu soạn, ông Lương chỉ viết mấy tờ đầu như cái tiểu dẫn. Trong phần như tiểu dẫn ấy, ông Lương có nói một cậu tợ hồ phân bua với độc giả người Tàu mà rằng, trong sách nếu có chỗ văn không được nhã thuần, ấy là vì muốn để y cho còn cái chơn tích của tác giả, cụ Phan, nên không hề sửa chữa một chữ nào. Đọc câu phân bua đó tôi phải ngẩn người ra, tôi phải đánh dấu trong đầu một sự chú ý rất lớn à, té ra học giỏi như Phan Bội Châu của An Nam, văn hay như Phan Bội Châu của An Nam mà viết ra người Tàu còn bảo là có chỗ không được nhã thuần! Nhã 雅 là nhã nhặn, đối với tục; thuần 馴 là như con thú rừng đem về tập luyện đã lành đi dompté. Viết văn mà không được nhã thuần, nghĩa là còn pha giọng tục, còn như con voi lung lăng chưa chịu vố, bành; con ngựa hay cất hay đá, chưa chịu cương, khớp. Người ngoại quốc viết tiếng Pháp, có nhiều câu không sai mẹo, không tối ý, người Pháp xem vẫn hiểu nhưng không cho là được, gọi là pasfrançais. Thì khi người ngoại quốc viết văn Tàu mà bị phê là không được nhã thuần, cũng có nghĩa như thế, nghĩa là paschinois vậy. Sau khi tôi thấy ông Lương Khải Siêu phê văn cụ Sào Nam rằng còn có chỗ paschinois, tôi bèn để ý xem lại văn của những người An Nam khác viết thì quả nhiên thấy ra có nhiều chỗ paschinois lắm. Lấy ví dụ gần đây cho bạn đọc có thể kiểm soát được, thì không đâu bằng lấy ở phần chữ Hán của tạp chí Nam phong. Trong đó nhan nhản những chữ người ta đã dùng chẳng ra Tàu chút nào cả. Nhất là chữ nhưng 仍 đem dùng như chữ nhiên 然 , chữ sí 啻 đem dùng như chữ thí 譬 thì đến ông Lương Khải Siêu cũng không hiểu nếu hồi còn sống ông có đọc! Nhưng cái thời đại báo Nam phong là thời đại chữ Hán ở nước ta đã tàn tạ rồi, không đáng trách lắm; tôi xin trình bạn đọc một bộ sách do Sử quán làm ra hồi Tự Đức mà trong đó còn có nhiều câu đầy những lỗi về văn pháp, không thể dung thứ được. Ấy là bộ Đại Nam chánh biên liệt truyện sơ tập, biên tập xong năm Tự Đức thứ năm, do hai ông Trương Đăng Quế và Võ Xuân Cẩn làm tổng tài, còn các quan toản tu toàn là người khoa giáp. Đây, tôi trích ra một vài cái lỗi của sách ấy Cuốn 23, truyện Lê Văn Duyệt, tờ 31, chỗ nói chuyện ông Duyệt để năm chục quan tiền giữa nhà, thình lình mất đi, đi tìm thì thấy “có người lót tiền mà ngồi trên nóc nhà” mà biên rằng 有 屋 上 者 載 錢 踞 坐 hữu ốc thượng giả tại tiền cứ tọa thì thật là không có nghĩa. Vì theo văn pháp, khi đặt 有 …. 有 cách ấy thì giữa nó phải có verbe mới được, mà ở đây chẳng có verbe nào hết. Nếu chữa lại 有 載 錢 踞 坐 於 屋 上 者 hữu tại tiền cứ tọa ư ốc thượng giả thì có nghĩa hơn. Cuốn 30, truyện Nguyễn Văn Nhạc, tờ 15, chỗ nói Nhạc nghe Huệ chết, chính mình đem hơn ba trăm liêu thuộc cùng em gái ra thăm, đi đến địa đầu Quảng Ngãi thì “bị viên đồn trưởng của Huệ ngăn lại” mà biên là 爲 惠 屯 將 阻 之 “vi Huệ đồn tướng trở chi” cũng lại không trôi nữa. Theo văn pháp, câu này muốn đặt lối actif thì nói 惠 屯 將 阻 之 “Huệ đồn tướng trở chi”; muốn đặt lối passif thì nói 爲 惠 屯 將 所 阻 “Vi Huệ đồn tướng sở trở”, chứ không ai lại đặt câu bằng lối passif lại còn để chữ 之 chi là chữ chỉ có thể dùng được trong câu actif mà thôi. Cuốn 31, truyện Cao Man, tờ 8, chỗ nói ba người em khác mẹ của vua Cao Man chạy sang Xiêm, bầy tôi cũ trong nước “có nhiều kẻ lẻn theo họ” mà biên là 多 有 潛 往 之 者 “đa hữu tiềm vãng chi giả” cũng không đúng mẹo. Theo văn pháp, 往 vãng là verbe intransitif, theo sau nó phải để chữ 焉 yên, không được để chữ 之 chi. Thế thì nên chữa lại 多 有 潛 往 焉 者 đa hữu tiềm vãng yên giả ; nhưng như thế, đúng mẹo mà chưa đủ nghĩa, vậy phải chữa nữa là 多 有 潛 往 從 之 者 “đa hữu tiềm vãng tòng chi giả”. Thôi, không lẽ cứ thế này mà kéo dây ra mãi, chỉ trích ba chỗ cũng là đủ rồi. Nhân tiện, tôi nắm lấy lẽ này làm kết luận Hơn một ngàn năm học chữ Hán, vẫn có nhờ nó lập cho ta một nền văn hóa khả quan, nhưng nếu nói ta đã lập nên trên thứ chữ ấy một nền văn hóa xứng đáng thì tôi tưởng rằng chưa chắc. Bởi một thứ chữ mà ta viết hãy còn chưa được nhã thuần, chưa đúng văn pháp, thì làm sao cho thành văn học được? Tội không tại người mà cũng không tại chữ. Tội tại người nước này mà lại dùng chữ nước kia! Bởi vậy tôi nói nước ta từ ngày có văn học quốc ngữ là một hạnh phúc ở đâu đưa đến cho chúng ta! Ở người ta, nước mất thì sợ cho chữ cũng theo mà mất; còn mình, trong khi nước mất lại có quốc văn sản xuất và mỗi ngày một thịnh, ấy chẳng phải là điều may mắn lạ? Nhân chữ Hán suy ra, tôi biết chữ Pháp rồi cũng thế. Cái trạng huống của văn học chữ Pháp ở nước ta mai sau ra thế nào, tôi có thể đoán biết từ hôm nay. Văn của ông Nguyễn Mạnh Tường hay của ông Phạm Duy Khiêm, mãi đến sau đây vài mươi năm rồi người ta sẽ tìm thấy nó pasfrançais cũng như văn cụ Sào Nam đã không được nhã thuần, của các quan Sử quán đời Tự Đức đã sai văn pháp! Thế thì sao người ta còn sính chữ Tây cũng như ngày xưa đã sính chữ Tàu? Rút lại, một thứ chữ ngoại quốc nào cũng chỉ hành dụng bởi sự nhu cầu của thời đại mà thôi, còn muốn lập nên văn học thì ắt phải là văn tự bản quốc mới được. Vậy chúng ta nên đồng thanh kêu Hỡi, người Việt Nam, trở về với quốc văn! PHAN KHÔI ▲ Tức là bài Văn học chữ Hán của nước ta đăng trên Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 169 22. 9. 1932 ▲ Nhân đề có chữ kỳ lân nên bài làm mỗi câu có tên một con vật để chọi quy, long, hùng gấu, lộc hươu; vì thế mà cho là hay, phục là tài. nguyên chú ▲ Xem sách Nam hải dị nhân liệt truyện về truyện ba người Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Thị Điểm. Ở đó có giải rõ nghĩa các câu đối này. ▲ Nguyễn Hy Tông tức là Nguyễn Phúc Nguyên ở ngôi chúa 1558-1612 ▲ Xem Nam hải dị nhân liệt truyện về truyện Đào Duy Từ. ▲ Nguyễn Thái Tông tức là Nguyễn Phúc Tần ở ngôi chúa 1648-1687 ▲ Jeu de mots chữ Pháp chơi chữ. ▲ Nghĩa là Mặt trăng sáng và trong, bị đám mây đùa bỡn làm cho tối lại sáng. ▲ Bốn câu giữa của bài Cẩm sắt Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp, Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. Thượng hải nguyệt minh châu hữu luy, Lâm Điển nhật hoãn ngọc sinh yêu. Xin khỏi thích nghĩa, vì khó quá mà lại lôi thôi nữa. ▲ Chắc nghĩa thế nào mà thích được! ▲ Nghĩa rõ rồi, không cần thích! ▲ Thơ của Nguyễn Hương, nghĩa là học được cái bí quyết sống lâu mà chẳng cầu cho thiên hạ biết mình. ▲ Nghĩa là người trong núi tự đi qua đi lại, vì núi sâu nên người ngoài chẳng ai biết. ▲ Thơ của Phạm Lam Anh ***, nghĩa là cái khí phẫn uất lồng lên, trời cũng có thể hỏi được; cái người một mình tỉnh đã đi rồi, trong nước trống trơn. Hai mẩu này đều thấy trong sách Đại Nam Triều Biên liệt truyện. ▲ Truyền kỳ mạn lục 傳 奇 漫 錄 của Nguyễn Dữ đời Hậu Lê; Vân nang tiểu sử 雲 囊 小 史 có in trong Nam Phong mấy số đầu.
Tác giả Vũ Thế Khôi Trong giới Hán học Trung Quốc và Việt Nam khá phổ biến ý kiến khẳng định rằng ngay từ cuối đời Tần cuối thế kỷ thứ III TCN chữ Hán đã bắt đầu được truyền vào Bắc bộ Việt Nam. Căn cứ duy nhất của họ là đoạn ghi trong Sử ký Tư Mã Thiên “Năm 33 tức 214 TCN – Tần Thuỷ Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải; cho những người đi đày đến đấy canh giữ”. Cũng dựa vào đoạn ghi chép đó, PGS Trần Nghĩa Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho rằng những người bị đi đày này “… nghiễm nhiên trở thành những sứ giả chở chữ Hán và tiếng Hán tới phương Nam”. Sử ký Tư Mã Thiên là bộ sử liệu vĩ đại đáng tin cậy, nhưng từ một đoạn ghi chép trên mà suy luận rằng chẳng những tiếng mà cả chữ Hán được truyền đến Bắc bộ Việt Nam cùng đạo quân viễn chinh nhà Tần thì e chỉ là võ đoán. Vì vấn đề lại có ý nghĩa nguyên tắc từ góc độ giao lưu văn hoá Trung-Việt, nên cuối năm 2003, tại “Hội thảo quốc tế về truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt”, họp ở Thâm Quyến 19-21/12/2003, chúng tôi đã dành nửa đầu của báo cáo để đặt lại vấn đề với 2 ý kiến tranh luận, đó là 1. Cùng với cuộc viễn chinh của quân Tần, bất quá mới chỉ có sự lan truyền tự nhiên không thể gọi là truyền bá! khẩu ngữ tức tiếng Hán, thường song hành với mọi cuộc xâm lấn và di dân, chứ chưa thể có chuyện truyền bá chữ Hán; 2. Chỉ sau khi Triệu Đà, Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải, lợi dụng thời cơ nhà Tần sụp đổ, năm 207 chiếm lĩnh 2 quận Quế Lâm và Tượng Quận, thiết lập vương triều cát cứ Nam Việt quốc 207-111 TCN, 18 năm sau thôn tính nốt nước Âu Lạc 208-179 TCN của An Dương Vương, chữ Hán mới thực sự được truyền bá, tức được dạy một cách có chủ định ở vùng đất Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay . Chứng minh ý kiến thứ nhất, chúng tôi biện luận như sau Theo chính Hán thư thì Tượng Quận không phải là Bắc bộ Việt Nam mà là vùng đất phía tây của Quảng Tây và phía nam của Quý Châu, như vậy thì trong cuộc viễn chinh vào miền đất Lĩnh Nam của Bách Việt, quân Tần mới chỉ đánh chiếm được vùng đất của Mân Việt Phúc Kiến, Quảng Đông, Dương Việt và Tây Âu Việt Quảng Tây và một phần Quý Châu, nhưng chưa chiếm cứ được đất Lạc Việt tức nước Âu Lạc của An Dương Vương. Một sử liệu đáng tin cậy khác là bức thư của Hoài Nam Vương Lưu An dâng lên can gián Hán Vũ Đế 140-86 trước CN đem quân vào đất Việt, đã miêu tả quân Tần từng bị khốn đốn ở đất Việt Lạc Việt? – như sau “Đời Tần sai quan uý Đồ Thư đánh đất Việt, người Việt trốn vào rừng núi, đánh không được, đóng quân ở vùng đất trống không, lâu ngày quân lính mệt mỏi, rồi người Việt ra đánh, quân lính Tần đại bại” . Sách Hoài Nam tử, cũng do chính Lưu An biên soạn, tả cảnh bại trận của quân Tần còn thê thảm hơn “Trong 3 năm không cởi giáp dãn nỏ… Người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư, thây phơi huyết chảy hàng mấy chục vạn người”. Năm 214 mới chiếm được vùng Lĩnh Nam, đến đất Việt 3 năm chiến đấu liên miên “không cởi giáp dãn nỏ”, bị thảm bại chủ tướng bị giết, sĩ tốt thì phơi thây; 8 năm sau, 206, nhà Tần đã diệt vong, vậy thời gian đâu mà truyền bá chữ Hán? Nêu ý kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá được dạy và học có chủ định từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là a sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ, tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lý dân Lạc Việt; vậy thì để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa ở triều đình trung ương và người Việt ở phủ, huyện, làng xã. b Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đã chủ trương dung hợp văn hoá Hoa – Việt, tạo ra những dòng họ hỗn huyết Hoa-Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt. Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xã, chúng tôi đã cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó dùng Lữ Gia mà chínhSử ký Tư Mã Thiên gọi là “Việt nhân” đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý Bôn Nam Đế – và ghi nhận Gia “làm Thừa tướng 3 đời vua… Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua…; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương”. Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt trong thư dâng Hán Văn Đế 179-156 trước CN ông viết “Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu”. Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động “xoã tóc, ngồi chò hõ tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa – mà tiếp” và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà “phản thiên tính” tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán! “Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi” tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!. Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ Lã là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt. Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết Triệu Đà … “thúc đẩy chính sách dân tộc “hoà tập Bách Việt”, xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán – Việt và phát triển kinh tế – văn hoá” . Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt “Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến”. Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng “Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] – Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống 1075-1077 khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng…”, tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược. Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia nay là phố Lê Ngọc Hân. Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự “bị động cơ chính trị chi phối”, khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ 1726-1780 viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án “… làng Đường Xâm quận Giao Chỉ nay là Đường Xâm huyện Chân Định có miếu thờ Triệu Đà…” Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương “Tỉnh Thái Bình” trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ “Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư”. Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm. Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công “hoà tập Bách Việt”, phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang =Lĩnh nam chi quang, họ Triệu đã Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương chắt của Triệu Đà con là thái tử Anh Tề phải vào làm con tin tại triều đình nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi còn trên đất Trung Quốc, đã là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý, nay thấy Thiếu Quý sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin “nội thuộc” nhà Hán… “bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước “Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc…”. Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán…; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ Đại Việt sử ký toàn thư ghi “mẹ” – là người Việt, làm vua…, đem quân đánh bọn Thiên Thu tướng nhà Hán, diệt được họ cách Phiên Ngung nay là Quảng Châu 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu” chúng tôi nhấn mạnh – . Rõ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng “Việt nhân”, “được lòng dân hơn vương”, là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đã chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đã viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân-Hà Nội “Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận” . Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt. Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lý-Trần TK XII-XIII chép “Nhà Triệu” ngang hàng với các “Nhà” Ngô, Đinh, Lê Đại Hành, Lý. An Nam chí lược đầu TK XIV, do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ “kỷ” mà Tư Mã Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là “thế gia” “Triệu thị thế gia” ngang hàng các “thế gia” Đinh, Lê, Lý, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trãi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lý, Trần. Trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố Xét như nước Đại Việt ta, Thực là một nước văn hiến. Cõi bờ sông núi đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Theo tinh thần đó Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là “ngoại thuộc”, để phân biệt với giai đoạn “Bắc thuộc” sau này, khi nước ta “nội thuộc” Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ còn vì lý do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là “Nam Việt”, nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đã đặt ra. Để rạch ròi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu “Việt Nam”, nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đã thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không còn tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược viết 1919, in 1921 mới lại đưa “nhà Triệu” vào quốc thống Đại Việt. Nếu Quang Trung không mất sớm thì sẽ ra sao nhỉ? Nhưng lịch sử không chấp nhận chữ “nếu”. Lịch sử đã an bài từ lâu. Ngày nay Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng hữu nghị, với biên giới đã xác định. Bởi vậy trong báo cáo tại Hội thảo Thâm Quyến 2003, chúng tôi đã nói rõ chỉ xem xét vương triều Triệu Đà thuần tuý từ góc độ giao lưu văn hoá. Nay xin một lần nữa nhấn mạnh như vậy. Nguồn Tạp chí Xưa và Nay số 256 tháng 8/2006 & Talawas
Nguồn gốc lâu đời của thơ chữ HánNhững bài thơ vang danh lưu truyền thiên cổTiểu thuyết chương hồi khai phát Chữ Hán là văn tự chung của các nước Á Đông cho đến thế đầu thế kỷ 20. Ngoài Trung Quốc, Việt Nam cùng với Nhật Bản, Triều Tiên Hàn Quốc, văn học chữ Hán phát triển rực rỡ, trở thành kỳ hoa dị thảo trong nền văn học Hán văn cổ điển. Nguồn gốc lâu đời của thơ chữ Hán Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, Việt Nam giành được quyền tự chủ vào cuối thời Đường. Do đó, văn hóa đời Đường có ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học chữ Hán Việt Nam. Không chỉ âm Hán Việt gần với ngữ âm đời Đường nhất, mà thơ Đường cũng được nền văn học cổ điển Việt Nam kế thừa và kéo dài. Thơ văn cổ Việt Nam khá giống thơ văn cổ Trung Quốc, đều mang một phong vị rất tiêu dao, hàm súc. Sau khi giành được độc lập, trăm việc ngổn ngang, đất nước lại cần phải phục hưng. Triều đại độc lập đầu tiên là nhà Đinh phúc phận ngắn ngủi từ năm 968 đến 980, thể chế chưa đầy đủ, chưa mở trường học. Vua Đinh Bộ Lĩnh ít chữ nghĩa, sau khi cầm quyền muốn dùng uy để cai trị thiên hạ, đặt cái đỉnh lớn trước triều đình, nuôi hổ trong chuồng, hạ lệnh ai trái lại sẽ bị đun chết hoặc cho hổ ăn. Mọi người đều sợ, không có người phạm lỗi. Do đó, triều Đinh không có nền văn học. Kế thừa triều Đinh là triều Tiền Lê 980 – 1010, phúc nước cũng ngắn ngủi giống triều Đinh. Các nhà văn, nhà thơ cũng chỉ thưa thớt, dù vậy đã để lại một số bài thơ chữ Hán sớm nhất còn lưu lại đến nay, tiêu biểu nhất là bài “Quốc tộ” Vận nước của thiền sư Đỗ Pháp Thuận. Quốc tộ như đằng lạcNam thiên lý thái bìnhVô vi cư điện cácXứ xứ tức đao binh Dịch thơ Vận nước chằng chịt dây leoTrời Nam khai mở ắt gieo thái bìnhVô vi xử thế cung đìnhĐao binh tự dứt thái bình nơi nơi. Năm 1010, triều Lý kiến lập liền dựng Văn miếu, mở khoa thi chọn nhân tài, văn phong dần dần phát triển. “Nam quốc sơn hà” Sông núi nước nam của đại tướng Lý Thường Kiệt là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất Nam quốc sơn hà nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khán thủ bại hư Dịch thơ Sông núi nước Nam, vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạm?Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn Bài thơ này khí phách hào hùng, bút pháp nhuần nhuyễn, đặt vào cùng với Đường thi thì không hề thua kém. Sau thời Lý, văn thơ chữ Hán Việt Nam đã phát triển ổn định, chắc chắn. Có một điểm đặc biệt là rất nhiều bậc quân vương các triều đại đều yêu thích văn thơ chữ Hán. Các vua triều Trần đa phần giỏi văn chương, đến mức người Nguyên phải khen ngợi “An Nam tuy tiểu văn chương tại, vị khả khinh đàm tỉnh để oa” An Nam tuy nhỏ văn chương giỏi, chớ có coi thường chẳng phải ếch ngồi đáy giếng đâu. Lê Thánh Tông là “Tao đàn nguyên soái”. Ảnh Sau đó, vị vua đời thứ 4 triều Hậu Lê là Lê Thánh Tông 1442 – 1497 còn tự lập thi đàn, tự xưng “Tao đàn nguyên soái”. Thơ ông rất nhiều kiệt tác. Đến thời đầu triều Nguyễn, dù đã gần vào thời điểm mạt vận, các Hoàng đế Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đều tinh thông văn thơ chữ Hán, đều có các bài thơ lưu truyền hậu thế. Vua Thiệu Trị 1807 – 1847 còn làm được 2 bài thơ thể “Hồi văn” là thể thơ lặp lại các từ với trật tự khác nhau, ngữ nghĩa khác nhau, có thể thấy trình độ Hán văn của vua rất cao. Một trong hai bài đó là bài thơ “Vũ trung sơn thủy” Non nước trong mưa Loan hoàn vũ hạ giang triều phiếmTrướng dật phong tiền ngạn bái hươngSơn tiêu ám vân thôi trận trậnLãng sinh khiêu ngọc trích thanh thanhSàn sàn thủy giản đài tư nhuậnDạng dạng ba châu liễu mậu vinhNhà điếu nhất chu ngư dật tấnHướng lâm song ông yến phi khinh Dịch thơ khuyết danh Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngậpLộng gió sông đào bến biếc xanhNon phủ kín mây tuôn tới tấpSóng khêu thưa giọt gõ lanh canhLan man suối trải rêu tươi mậpSóng sánh cồn vươn cỏ tốt xanhNhàn thoáng một câu thuyền nhẹ tắpDóng rừng dăng kéo én bay nhanh. Đọc ngược đọc xuôi đều hợp luật có vần, có nghĩa, đọc ngược như sau Khinh phi yến tiễn song lâm hướngTấn dật ngư chu nhất điếu nhànVinh mậu liễu châu ba dạng dạngNhuận tư đài giản thủy sàn sànThanh thanh địch ngọc khiêu sinh lãngTrận trận thôi vân ám tỏa sơnThanh biện ngạn tiền phong dật trướngTấn triều giang hạ vũ hoàn loan. Dịch thơ khuyết danh Nhanh bay én kéo dăng rừng dóngTắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhànXanh tốt cỏ vươn cồn sánh sóngMập tươi rêu trải suối man lanCanh lanh gõ giọt thưa khêu sóngTấp tới tuôn mây kín phủ nonXanh biếc bến đào sông gió lộngNgập dâng triều cuộn nước mưa dồn Thời đó có các nhà thơ văn nổi tiếng như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Bạch Hào Tử… Vua Tự Đức 1829 – 1883 đã làm thơ ca ngợi 4 nhà thơ văn trên như sau “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường” Văn như Siêu, Quát thời tiền Hán chưa từng có. Thơ như Tùng, Tuy là thơ đã thất lạc của thời Thịnh Đường. Tuy có khuếch đại, nhưng bốn người này văn thơ quả là xuất chúng. Như bài thơ “Hoành Sơn vọng hải” Trên núi Hoành Sơn ngắm biển của Cao Bá Quát 1809 – 1855 Quân bất kiếnHải thượng bạch ba như bạch đầuNộ phong hám phá vạn hộc châuLôi khu điện bác hãi nhân mụcTrung hữu điểm điểm phù khinh âuHải khí quyển sơn, sơn như chỉSơn bắc, sơn nam thiên vạn lýCông danh nhất lộ kỷ nhân nhàn?Quan cái phân phân ngã hành hỹ! Dịch thơ Anh chẳng thấyTrắng phau sóng vỗ bạc đầuGầm gào gió thét thuyền tàu vỡ tanKinh người chớp giật sấm ranHải âu đôi chấm bồng bềnh biển khơiNon nam núi bắc xa vờiLạnh dầm hơi biển hao gầy vẻ nonCông danh đường ấy ai nhànNợ đời mũ lọng rộn ràng bước ta Bản dịch của Trương Việt Linh Từ cảnh biển rộng tráng lệ, mênh mông, nhà thơ đã cảm thấy công danh chốn nhân gian chính là một sự bó buộc lớn, thơ có khí khái của Lý Thái Bạch. Cao Bá Quát 1809 – 1855. Những bài thơ vang danh lưu truyền thiên cổ So với Trung Quốc thư tịch cổ nhiều như biển, Việt Nam đặc biệt thời kỳ đầu thư tịch vốn còn lại không nhiều, chủ yếu do chiến tranh loạn lạc liên miên kéo dài. Ví dụ, khi tiến đánh Việt Nam, quân Mông Nguyên đã tiêu 4 bộ “Đại tạng kinh” và 1 bộ “Đạo đức kinh” mà Việt Nam thỉnh về từ nhà Tống. Năm Thiệu Khánh thứ 2 nhà Trần, quân Chiêm Thành từ đường biển vào cướp Thăng Long Hà Nội ngày nay, đã cướp con cái, ngọc lụa, đốt hủy cung điện, “Tranh, bản đồ, thư tịch vì vậy đã bị mất sạch”. Nhưng những thư tịch chữ Hán còn lại vẫn có rất nhiều tuyệt tác. Lý triều Thái Tổ Lý Công Uẩn 974 – 1028 vào năm 1010 đã dời kinh đô đến thành Đại La đổi tên thành Thăng Long. “Chiếu dời đô” do ông viết được coi là tác phẩm văn học viết và văn hiến lịch sử sớm nhất còn lại hiện nay. Tác phẩm mở đầu đầu bằng “Xưa nhà Thương và Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương 3 lần dời đô”, đã viện dẫn các kinh điển để nói lý do dời đô, văn từ rất hào hùng, xứng danh là tác phẩm truyền đời. Đến thế kỷ thứ 13, khi đại quân Mông Cổ xâm lược áp sát kinh thành Thăng Long, quân đội triều Trần đứng trước quan nạn tan vỡ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 1226 – 1300 đã viết “Dụ chư tì tướng hịch văn”, còn gọi là “Hịch tướng sỹ”, khảng khái, phấn chấn ngút trời, cổ vũ ý chí chiến đấu của tướng sỹ bảo vệ quốc gia “Ta thường nghe Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao ế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính ức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc… Giặc Mông Thát với ta là kẻ địch không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?”. Trong bài hịch này, Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức Uất Trì Cung, Cảo Khanh anh họ Nhan Chân Khanh đều là những kẻ sỹ trung liệt trong lịch sử. Cũng trong triều Trần đã xuất hiện rất nhiều thơ phú chữ Hán, đáng tiếc là được bảo tồn đến nay chỉ còn mười mấy bài, “Bạch Đằng giang phú” Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu nổi tiếng một thời. Bài phú này mở đầu bằng “Giương buồm giong gió chơi vơiLướt bể chơi trăng mải miết” Cho đến cuối bài “Giặc tan muôn thuở thanh bìnhBởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao” Nhà thơ ví những lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng với các trận chiến nổi tiếng lịch sử. “Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bayTrận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụiĐến nay sông nước tuy chảy hoàiMà nhục quân thù khôn rửa nổiTái tạo công laoNghìn xưa ca ngợi” “Bạch Đằng giang phú” là một viên ngọc quý với những câu thơ tuyệt tác còn được lưu truyền đến tận ngày nay. Trong những tác giả này, vị trí cao nhất trong nền văn học chữ Hán thuộc về Nguyễn Trãi, khai quốc công thần triều Hậu Lê do cống hiến to lớn của ông đối với nền văn học Việt Nam. Năm 1980, tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa liên hiệp quốc UNESCO đã tôn vinh ông là danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm tiêu biểu của ông là “Bình Ngô đại cáo” nổi tiếng trên văn đàn và lịch sử Việt Nam. Bài hịch văn này trở thành “Thiên cổ hùng văn” lấy khẩu khí của Lê Lợi, hoàng đế sáng lập nhà Hậu Lê viết. Lời văn bình dị lưu loát, đọc lên thực sự xúc động lòng người, thực sự có giá trị nghệ thuật và giá trị văn hiến rất cao. Nguyễn Trãi 1380-1442 người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay thuộc Chí Linh, Hải Dương. Ảnh Chữ “Ngô” trong “Bình Ngô đại cáo” là chỉ triều Minh, vì Chu Nguyên Chương đã từng xưng là Ngô Vương. Tư tưởng chính trong toàn bộ tác phẩm là lên án tội ác của triều Minh, đồng thời sử dụng nhuần nhuyễn các tấm gương lịch sử, các điển tích, trong lịch sử, văn học cổ đại Trung Quốc. Điều đó làm cho bài hịch văn đanh thép, luận cứ, dẫn chứng, chứng minh hùng hồn, đầy sức thuyết phục không chỉ đối với tướng sỹ, nhân dân, mà ngay cả đối với kẻ địch, làm nổi bật lên tư tưởng nhân nghĩa, chính nghĩa của cuộc kháng chiến “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoNhư nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTrải Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phươngTuy mạnh yếu có lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng có” Tiểu thuyết chương hồi khai phát Bốn bộ tiểu thuyết tiêu biểu của thời Minh Thanh lần lượt được truyền vào Việt Nam, trong đó “Tam Quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng lớn nhất. Theo “Bắc sứ thông lục” Ghi chép khi đi xứ Bắc triều của Lê Quý Đôn, từ năm 1760 đến 1762, ông đi sứ Trung Quốc, đã được đọc “Tây Du ký”, “Tam Quốc diễn nghĩa”… Khi trở về Việt Nam Lê Quý Đôn còn đem theo một bộ “Phong thần diễn nghĩa”. Lúc đó Việt Nam thường lấy các tích truyện trong các bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc viết thành các vở kịch. Hiện nay ở Bảo tàng Anh có lưu giữ hơn 50 kịch bản khắc gỗ của Việt Nam, trong đó có 9 vở có niên đại trước thế kỷ 19, là liên quan đến các câu chuyện Tam Quốc. Các vở kịch gồm có “Tam cố mao lư”, “Giang hữu cầu hôn truyện”, “Hoa chúc truyện”, “Kinh Châu phó hội”, “Hoa Dung đạo”, “Tiệt giang truyện”, “Đương Dương Trường Bản”… Bộ tiểu thuyết kinh điển “Tam quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng rất lớn đến văn học cổ điển Việt Nam, được các nhà tiểu thuyết gia Việt Nam coi là mẫu mực trong thể tiểu thuyết chương hồi, lịch sử. Bộ tiểu thuyết lịch sử chữ Hán đầu tiên của Việt Nam, đặt nền móng cho dòng văn học tiểu thuyết lịch sử Việt Nam là “Hoàng Việt xuân thu” ra đời vào giữa thế kỷ 15, gồm 60 hồi, chia làm 3 quyển thượng, trung, hạ, mỗi quyển 20 hồi. Bộ sách miêu tả giai đoạn lịch sử từ triều Hồ đầu thế kỷ 15 đến khi Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Tình tiết không phải quá hấp dẫn người đọc nhưng cũng khá hay. Trong “Hoàng Việt xuân thu”, mưu sỹ của Lê Lợi là Lê Thiện mà chính sử rất hiếm nhắc đến, là một nhân vật quan trọng. Ông là người hiến rất nhiều kế hay giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh như “Đầu thư thọ kế”, “Quyết sách công thành”, “Tượng trận thiêu đồn”, “Ngọc nhụy dụ địch”… Ông túc trí đa mưu, nhìn xa trông rộng, tính toán trong trướng, quyết thắng ngàn dặm, có thể so sánh với Gia Cát Lượng trong “Tam quốc diễn nghĩa”. Hai trăm năm sau, tiểu thuyết lịch sử cổ điển Việt Nam đạt đến đỉnh cao với bộ “Hoàng Lê nhất thống chí”. Đây là bộ tiểu thuyết viết vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, tương ứng với những năm cuối Càn Long và đầu Gia Khánh nhà Thanh Trung Quốc. Nội dung chủ yếu kể về sự diệt vong của triều Hậu Lê và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của họ Nguyễn. Bộ sách có 17 chương hồi, Ngô Thì Chí viết 7 hồi đầu, sau đó Ngô Thì Du viết tiếp 10 hồi, Ngô Thì Nhiệm biên tập chỉnh lý. Do ba anh em họ Ngô đều trải qua thời đại miêu tả trong tiểu thuyết, tận mắt thấy nhiều sự kiện lịch sử nên bộ sách đảm bảo được sự thống nhất về nghệ thuật tiểu thuyết và sự thực lịch sử. “Hoàng Lê nhất thống chí” mang đậm sắc thái số mệnh. “Thiên mệnh” này dường như đang chi phối tiến trình phát triển lịch sử chứ không phải con người. Nhân vật trọng điểm mà bộ tiểu thuyết xây dựng là Nguyễn Hữu Chỉnh, khởi đầu làm môn khách của Diệp Quận phủ. Thầy ông là Hoàng Tố Lý đảng Đặng Phi bị giết chết trong cuộc chiến quyền lợi, Chỉnh trốn chạy đến Tây Sơn được anh em Nguyễn Nhạc trọng dụng. Sau đó ông dẫn quân Tây Sơn vào Thăng Long, có công bảo giá, được thiếu Chúa coi trọng, trở thành nhân vật quyền lực trung tâm. Ông quyền ngang vua, thế nghiêng thiên hạ, mọi người không dám liếc nhìn, cuối cùng bị quân Tây Sơn giết. Nhân vật ỷ thiên tử để lệnh chư hầu này có bóng dáng của Tào Tháo trong “Tam quốc diễn nghĩa”. Nhưng trong “Tam quốc diễn nghĩa” chỉ làm nổi bật lên một mặt “gian hùng” của Tào Tháo, bỏ qua tính phức tạp của tính cách nhân vật. Tính cách nhân vật Nguyễn Hữu Chỉnh trong ”Hoàng Lê nhất thống chí” được phản ánh như thực, một mặt rất có tài năng, công lao, một mặt tự tư tự lợi, tham lam tàn bạo. Rõ ràng hình tượng nhân vật này phong phú hơn hình tượng Tào Tháo nhiều. Có thể thấy, các nhà tiểu thuyết gia của Việt Nam không chỉ học theo tiểu thuyết Trung Quốc mà có nhiều thủ pháp nghệ thuật vượt hơn Trung Quốc. Bất luận thế nào, di sản văn học chữ Hán Việt Nam cũng trở thành một bộ phận của chỉnh thể văn học cổ điển Á Đông. Ngày nay, Việt Nam đã sử dụng ký tự La-tinh, tuy tiện phổ cập, dễ đọc, dễ học nhưng nhưng cũng gây ra nhiều điều đáng tiếc. Chữ Hán bị đoạt dứt khiến rất ít người có thể tiếp cận với kho tàng văn học, văn hóa truyền thống. Đó cũng là sự đứt đoạn trong mạch văn hóa truyền thống và hiện đại. Nếu không nối được mạch đứt văn hóa truyền thống này thì như cây không gốc, như nước không nguồn. Con người, dân tộc không có bản sắc riêng thì rất dễ bị biến dị, bị hòa tan trong quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Nam Phương biên soạn
Mấy cái văn thể đặc biệt do người mình bày ra mà người Tàu không có Bấy lâu nay, khi viết lên trên báo, nói về văn học cổ của nước ta, tức là văn học bằng chữ Hán, tôi thường có ý lấy làm bất mãn; cũng như khi bàn về vấn đề nước ta có quốc học hay không, tôi chẳng sợ mích lòng chi hết, nói "không". Nhơn đó có người mắng là "vong tổ", có người cười là "thờ Thích Ca ngoài đường". Họ nói gì đó họ nói, tôi thấy thế nào thì khai ra thế ấy; tôi muốn nói thiệt, vì tưởng nói thiệt là có ích. Thật vậy, ai có biết qua cái tình trạng văn học trong thế giới nó lớn lao rực rỡ là dường nào, mà cũng biết luôn cái ở nước ta từ đời Trần đời Lê cho tới đời Nguyễn kêu bằng văn học đó ra sao, rồi tự nhiên cũng phải lấy làm hổ thẹn mà thấy mình là thua kém quá, không đem so bì với ai được hết. Sự thật thì ở bên Tàu ngày nay, những tay nghe xa thấy rộng họ còn phải nhìn nhận văn học của họ xưa nay là kém các nước thay, huống chi văn học của ta thuở xưa chỉ là phụ dụng văn học của Tàu mà hòng đem phô trương với ai cho được! Ấy vậy mà người mình có kẻ đem ông Nguyễn Du sánh với ông Victor Hugo, cũng như đem vua Quang Trung sánh với vua Napoléon thứ nhứt. Khoe khoang, mà khoe khoang một cách dại dột quá, luống làm cho thức giả phì cười. Mà há những bị cười thế là thôi đâu, sự khoe khoang ấy nếu không đè hẳn xuống cho dụt đi thì nó dưỡng thành cái lòng tự đắc xằng cho người trong nước, cũng đủ làm trở ngại cho con đường tấn hóa vậy. Muốn đem hai cái văn học của hai người hay hai dân tộc mà so sánh nhau thì phải nhớ mà so sánh cả đằng lượng và đằng phẩm. Phẩm là nói về văn chương hay dở; lượng là nói về đồ trứ thuật nhiều ít. Sự hay dở vẫn có định bình, tuy vậy mỗi người mỗi ý, còn có thể cãi nhau được; chớ đến sự nhiều ít, thôi thì phân minh ra giữa đó, chẳng ai có thể dối ai. Ai đó đem Nguyễn Du sánh với Victor Hugo về đằng phẩm, đã chắc Victor Hugo không đến dở hơn Nguyễn Du rồi; nhưng đến về đằng lượng thì Victor Hugo trăm phần, Nguyễn Du sao cho được một? Một đằng chỉ có một cái kiệt tác là Truyện Kiều với mấy chục bài thơ; còn một đằng kiêm cả thi gia, tiểu thuyết gia, sử học gia, không biết bao nhiêu là cái kiệt tác, thì đem mà so sánh làm chi cho chúng thấy chúng cười? Mình là dở, mà biết mình là dở, còn mong có ngày nhờ gắng học mà hóa hay bằng người ta. Đến như mình là dở, mà không tự biết, cũng nói mình hay hơn người ta hay là bằng người ta, thế là vừa tự khi, vừa tự đại, không làm thế nào tấn bộ nữa được một người đã vậy mà một dân tộc cũng vậy. Vì vậy mỗi khi nói đến sự học ở nước mình, tôi thường khai thiệt cái dở của mình ra cho ai nấy biết. Trong ý tôi muốn rằng chúng ta đã biết mình là dở thì phải gắng học cho nên hay; chớ không có ý gì bội bạc người xưa cùng là khinh thị cái văn hóa cũ của xứ mình hết. Chẳng những thế thôi, khi nào thấy ta có điều đáng đem khoe cho thiên hạ biết thì tôi cũng chẳng bỏ qua một dịp nào. Văn học nước ta tuy không có thể so bì với văn học các nước trên thế giới, và cả đến nước Tàu, ta cũng thua họ nữa, nhưng riêng ta với họ, ta chẳng đến nỗi không có một cái đặc sắc nào đáng đem kể với họ đâu. Chúng ta có khoe được với họ chăng, là khoe những cái đặc sắc ấy, vậy mà người mình ít hay chú ý tới, trở đi nhè trong cái "vườn" không "hoang" mà "múa gậy"!... Hết thảy mấy nước ở Á Đông đồng văn với Tàu là Nhựt Bổn, Triều Tiên và nước ta. Mà nay xét xem trong những sách vở người Tàu làm ra, thấy họ có nói đến văn học Nhựt Bổn, Triều Tiên, còn nước mình thì họ ít hay nói tới. Có ít nhiều người Tàu lại ra ý khinh thị nước ta lắm, họ coi ta như là mọi rợ chi chi, chớ không hề biết ta là một nước đồng văn với họ nữa kia. Như thế, tưởng cũng chẳng nên trách gì, vì những đồ trứ thuật của người Nhựt, người Triều Tiên hay truyền bá qua Tàu, còn sách vở chữ Hán của ta đời trước không lưu truyền đến bên xứ họ, cho nên họ không biết đến ta là phải. Năm trước, một tờ báo Tàu trong Chợ Lớn có viết một câu rằng "Đã lâu cho đến giờ chúng tôi chưa hề thấy một người An Nam nào viết Hán văn cho thông". Coi đó thì đủ biết trong con mắt họ coi ta là ra thế nào! Thấy vậy nên trước kia tôi từng có chí thâu góp những cái tinh hoa về văn học chữ Hán của ta từ xưa rồi biên tập và in thành sách đặng lưu hành ở trong nước một mớ, còn một mớ thì truyền bá qua Tàu, hầu làm tài liệu cho những nhà học giả của họ khảo cứu mà biết được cái thiệt trạng của nước mình một ít. Nếu làm được vậy thì sự ích lợi vô hình ở tương lai không phải là nhỏ; mà ngay trong thời hiện tại đây cũng mong được rằng cái luận điệu của họ đối với ta sẽ nhờ đó mà day đổi đi. Nhưng có chí mà không có tiền thì thể nào làm nổi công việc lớn lao ấy? Cho nên tôi chỉ thuật lại ở đây đặng có vị đồng bang nào đủ sức làm được thì làm; còn tôi, tôi đi làm cái việc mà tôi có thể làm được. Năm 1929, tôi có viết trong tờ Quần báo ở Chợ Lớn bao nhiêu bài nói về học thuật tư tưởng của người mình hiện nay và nói về văn học chữ Hán ở xứ ta vào khoảng mấy chục năm về trước. Ấy là tôi muốn đem cái món hàng "người Việt Nam" mà quảng cáo cho dân Tàu đó; song tiếc thay, làm cái việc không công ấy khó mà nối nắm làm hoài hoài được! Trong bao nhiêu bài báo bằng chữ Hán đó, có một bài tôi để cái đầu đề như đã dịch ra làm đầu đề trên đây. Trong đó tôi chỉ vạch ra mấy cái đặc sắc của văn học xứ ta cho người Tàu biết vậy thôi. Nay đem thuật lại đây cho bà con anh em biết với, tưởng cũng là một sự có ích vậy. * * * Nước Việt Nam chúng tôi hơn ngàn năm nay tôn chuộng đạo Nho, hiệu là một nước đồng văn với Trung Quốc. Từ buổi triều Trần triều Lê, văn học rất thạnh, đời nào cũng có tay trứ thuật, nhưng cũ rồi, không kể làm chi. Gần đây, từ triều Nguyễn thống nhứt cả nam bắc, văn sự lại còn thạnh hơn xưa nữa. Tuy thế nước càng ngày càng yếu, nguyên nhơn cũng có bởi đó mà ra; nhưng nói riêng về một phương diện văn học thì hồi đó có nhiều tay danh nho, bộn bề nhà tác giả, thật cũng đáng gọi là cái quang vinh cho một nước vậy. Kể ra một ít người có danh tiếng hơn hết, là như ông Tùng Thiện Vương, tên là Miên Thẩm, con trai vua Minh Mạng, làm thay "thi bá" trong một đời, lại giỏi về thể văn tứ lục nữa, người đời bấy giờ đem sánh với Tào Thực, Trần Tư Vương, con vua Ngụy Võ đế bên Tàu, thật cũng xứng đáng thay. Lại như các ông Phan Thanh Giản, Cao Bá Quát, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Thông... người thì nổi tiếng về thi, người thì nổi tiếng về cổ văn, ông nào cũng có tập để lại, và văn từ đều thật là điển nhã. Mấy ông đó ông nào cũng có dịp làm quen và xướng họa với văn nhân học sĩ bên Tàu và được họ khâm phục thôi trọng cả. Đến nay ta đọc lại những văn chương của các ổng cũng còn thấy được cái lưu phong di vận thoang thoảng bên mình, thật là thạnh vậy thay! Tuy vậy, lấy con mắt chúng ta ngày nay mà xem thì thứ văn học ấy là văn học "chết" chớ không phải văn học "sống", là văn học "quý tộc" chớ không phải văn học "bình dân". Tại sao? Tại văn học với tiếng nói chia làm hai; vả lại thứ văn học đó chỉ thông hành ở giữa đám trí thức với nhau, thì sự không có ảnh hưởng, không có ích lợi gì cho xã hội Việt Nam hết, là rõ ràng lắm vậy. Vài chục năm nay, văn học Quốc ngữ dấy lên mà thay cho thứ văn học ấy là phải lắm. Dầu vậy mặc lòng, thứ văn học ấy, cái địa vị của nó tuy mất mà cái thế lực ngầm ngấm của nó vẫn còn; huống chi nó chiếm cái vị trí trên văn học sử của nước chúng tôi hơn ngàn năm nay, thì có lẽ nào bỏ nó đi mà không nói tới được? Tưởng những nhà khảo cổ ngày nay cũng nên tìm xét đến thứ văn học cổ của nước Việt Nam đó mới phải. Nay xin tạm để những cái khác ra, mà cùng độc giả các ngài riêng bàn về "mấy cái văn thể đặc biệt" của văn học chữ Hán nước chúng tôi. Vả mấy cái văn thể đặc biệt ấy là tự các nhà văn học nước Nam chúng tôi sáng tạo ra, chớ không phải bắt chước theo người Tàu vậy, vì nguyên người Tàu chưa hề có mấy cái văn thể ấy. Nói nội một điều đó, há chẳng làm cho nền văn học Việt Nam thêm sự vẻ vang, và nhà văn học Trung Huê há chẳng nên chú ý đến sao? Phàm các văn thể trải qua nhiều đời mà người Trung Quốc đã đặt ra, như cổ văn, thi, phú, tứ lục, từ xưa văn nhân nước chúng tôi đều làm được hết; duy có một thể "điền từ"[1], vì cớ âm điệu không giống nhau nên người Việt Nam biết mà làm được là rất ít. Nhưng cũng bởi không làm theo thể điền từ Tàu được, nên mới chế hóa ra mà làm một lối điền từ khác. Cho nên, kêu là mấy cái văn thể đặc biệt đó, nếu đổi đi mà kêu là lối điền từ riêng của người Việt Nam thì cũng không phải là không được đâu. Bởi vì mấy thứ đặc biệt ấy đều bởi cái âm điệu riêng của người Việt Nam mà thành ra vậy. Một là thể lục bát. − Trên sáu chữ, dưới tám chữ làm một câu; mà chữ thứ sáu của câu tám hiệp vận với chữ thứ sáu câu sáu vậy nên gọi là lục bát. Như Truyện Kiều có câu Hồ công quyết kế thừa ky, Lễ tiên, binh hậu, khắc kỳ tấn công. Thể lục bát ấy ban đầu bởi tiếng Việt Nam làm ra, phàm những câu ca dao từ xưa đến nay đều dùng thể ấy. Sau rồi bọn văn nhân lấy chữ Hán mà làm, bèn thành ra một thể riêng của Hán văn. Câu lục bát kể trên đó là chỉ một câu chữ Hán xen vào trong một cuốn truyện chữ Nôm đó thôi; chớ còn cũng có thứ sách làm bằng chữ Hán mà từ đầu đến cuối toàn dùng thể lục bát. Trong sử Việt có chép một chuyện mà ngày nay chúng ta đem kể ra vẫn còn thấy là thú. Chép rằng Hồi triều Lê, có ông mỗ tôi quên tên mà hiện không có sách để tra, xin lỗi cùng độc giả, đi sứ bên Tàu. Có người Tàu hỏi ông chớ thể văn lục bát có phải là tự người An Nam chế ra không? Ông ấy trả lời rằng "Thể lục bát là bắt chước theo kinh và sử, có điều tại các ông không biết đó thôi!" Người hỏi xin cắt nghĩa tới nơi. Ông ấy liền đọc câu Kinh Dịch Lục tam hàm chương khả trinh, Hoặc tùng vương sự vô thành hữu chung; lại câu trong Tống sử Đế dĩ Thái Xác hữu công, Sử chi tùng tự Triết tông miếu đình. Rồi ông cho hai câu ấy tức là cái nguồn cái gốc của thể lục bát đó. Ông ấy nói vậy chẳng qua mượn cái nguồn gốc ở kinh và sử để cho có vẻ nghiêm trang và cũng để dọa người hỏi mình luôn thể, chớ kỳ thiệt không phải là chánh luận. Hai là thể lục bát gián thất. – Thể nầy do lục bát mà suy diễn thêm ra. Trên câu lục bát có một câu song thất, mà trong câu song thất, chữ thứ năm của câu thất dưới hiệp vận với chữ thứ bảy của câu thất trên; rồi chữ thứ sáu của câu lục bát lại hiệp vận với chữ thứ bảy của câu thất dưới. Cho nên gọi là lục bát gián thất hay gọi là song thất lục bát. Như bài Thu dạ lữ hoài ngâm bằng Hán văn dài lắm, mở đầu rằng Thu dạ tịnh thiên quang ẩn ước Cách sơ liêm đạm chước kim bôi; Thiên thời nhân sự tương thôi, Phù sanh nhược mộng kỷ hồi vi hoan! Bài nầy dài lắm, không chép hết vào đây được. Nhưng bốn câu đó là một "giải", rồi sau cứ thế mà tiếp nối luôn, không có đổi khác gì cả. Bà là thể ca trù. – Thể nầy hồi đầu cũng dùng tiếng Việt Nam phổ vào lời ca cho cô đào hát, khách thưởng âm điểm trống nhỏ như là "điểm trù", cho nên gọi là "ca trù". Thứ cô đào ấy từ Quảng Bình Hà Tĩnh đổ ra mới có, mà có nhiều là ở Hà Nội và Nam Định, người Tàu nào có kiều cư mấy nơi ấy chắc có biết tới. Dùng chữ Hán làm bài hát, sự ấy trước chưa từng nghe; mới có đâu từ khoảng trăm năm trở lại đây. Hiện nay cô đào Bắc kỳ còn có hát được một bài bằng Hán văn hay lắm, như vầy Phong thanh nguyệt bạch, Tô Đông Pha Xích Bích chi du. Tích phùng thu kim hựu phùng thu, Thiên cổ hào tình nhân vị lão. Ngô đồng nguyệt hướng hoài trung chiếu, Dương liễu, phong lai diện thượng xuy. Vấn nam lâu kim dạ hà ky, Giang thôn chỉ kiến thiên biên nhận. Ngọc địch nhứt thinh, hàn đăng nhứt trản, Hoài giai nhân hề bất năng vương, Thu phong lan tú, cúc phương! Trong các ông Huê kiều có ông nào đi Hà Nội chơi thì chép bài ca nầy rồi ra đó mà bảo cô đào ca cho nghe, sẽ thấy cái âm điệu du dương mà uyển chuyển, nghe êm tai lắm! Ông Nguyễn Văn Thắng, người làng Yên Đổ, tỉnh Hà Nam, Bắc kỳ, đậu tam nguyên hồi trào Tự Đức, là tay văn học có tiếng nhứt trong thuở đó. Người thuở đó cho đến bây giờ cũng kêu là "Tam nguyên Yên Đổ" mà không kêu tên. Sau khi nước bị bảo hộ, ông ấy ở ẩn mà không ra làm quan, lấy sự uống rượu ngâm thơ làm vui, và thơ văn của ông làm ra nhiều lắm; nay trích lục hai bài ca trù bằng chữ Hán của ông cho biết. Bài thứ nhứt đề là Bùi Viên cựu trạch Bùi viên ngô cựu trạch, Tứ thập niên kim nhựt phú quy lai. Tùng tùng, cúc cúc, mai mai, Phiêu nhiên hữu, khưu hác lâm tuyền chi dật thú. Bành Trạch tố cầm ngâm cựu cú, Ôn công tôn tửu lạc dư xuân. Đông phong hồi thủ lệ triêm cân. Diểu thương hải tang điền kinh kỷ độ! Quân mạc thán Lỗ hầu chi bất ngộ, Như bằng tăng bạch phát phục hà vi? Quy khứ lai hề hồ bất quy! Bài thứ nhì đề là Bùi Viên đối ẩm Túy ông chi ý bất tại tửu, Nhi tại hồ sơn thủy chi gian Sơn mịch mịch, thủy sàn sàn. Ngô dữ tử chi sở cọng thích. Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh. Sở dĩ chung nhựt túy, đồi nhiên ngọa tiền dinh, Châu Bá Nhân độ giang, tam nhựt tinh bất vi thiểu. Mạc kiếu! mạc kiếu! Hà bất tợ đương sơ nhứt tiếu? Vương lang tửu kìm, bạt kiếm chước địa ca mạc ai! Khuyến quân cánh tận nhứt bôi! Hai bài của ông Yên Đổ đó đều có vẻ lâm li bi tráng; dầu cho lấy trình độ Hán văn mà luận đi nữa cũng không có thể bảo là không cao được vậy. Trong bài thứ hai vận dụng toàn những câu thành cú mà y như của mình đặt ra, thế mới lại càng khó hơn nữa. Có điều cả bài, câu nào cũng trục trặc, phải là tay ca cho thiện nghệ lắm mới ca nổi. Như trên đã nói, các nước ở Á Đông mà đồng văn với Trung Quốc là có ba nước Nhựt Bổn, Triều Tiên và Việt Nam. Thi văn của người Triều Tiên, tôi có đọc được một ít, coi cũng không có gì khác với Trung Quốc hết. Còn Nhựt Bổn thì có lối "Hòa ca" là văn thể riêng của họ; nhưng cũng là do theo lối thất ngôn tuyệt cú mà đổi khác sơ sơ đi đó thôi. Duy có ba cái văn thể đặc biệt trong chữ Hán mà của người Việt Nam chúng tôi sáng tạo ra đây, nếu đem cho nhà văn học Tàu phúng tụng thì ắt sẽ thấy có cái mỹ cảm khác thường lắm, cũng như họ ở bên Bắc Kinh Thượng Hải mà đi ăn cơm tây nấu thì theo kiểu tây mà những thịt, cá, rau, cải thì thuần là đồ thổ sản của Tàu! Ai dám bảo rằng người Việt Nam chúng tôi không có cái năng lực đủ mà sáng tạo kìa?[2] PHAN KHÔI ▲ Điền từ là một văn thể ở Trung Quốc do thi hóa ra, có từ đời Đường mà đến đời Tống về sau mới thạnh hành nguyên chú của PK. ▲ Những bài ca bằng chữ Hán trong bài nầy đáng lẽ sắp bằng chữ Hán, nhưng vì nhà in có ít chữ Hán quá, lúc nầy lại phải dùng làm việc khác nữa, nên xin tạm sắp bằng quốc ngữ nguyên chú của PK.
văn học chữ hán việt nam